Tuesday, March 23, 2010

QUA BẾN NƯỚC XƯA

QUA BẾN NƯỚC XƯA
HOÀNG MỘNG GIỚI
Chuyến bay của Luân từ Canada đáp xuống phi trường Charles De Gaulle khi trời hãy còn quá sớm. Chàng qua Pháp để dự đám cưới con gái của Đạt, bạn chàng, ở Calais, một thị trấn nhỏ ở vùng biển Manche. Luân có một người anh ruột ở ngoại ô Paris mà chàng sẽ gặp hôm nay. Sau thủ tục nhập cảnh, Luân lấy taxi về thẳng Gare du Nord. Chàng vào mua vé và tìm hộc khóa cất hành lý. Chàng sẽ đi Calais vào buổi chiều. Chàng dành buổi sáng đi thăm thành phố. Luân ra khỏi nhà ga, chàng chậm rãi đi bộ. Mùi cà phê đậm đà trong không gian làm Luân thật dễ chịu. Chàng đi lạc vào những con phố vắng và xinh đẹp, thành phố không còn quen thuộc với chàng nữa! “Tôi chỉ là con chim đến từ núi lạ”, chàng chặc lưỡi, nhủ thầm. Ngày cũ, mỗi khi về thành phố để thăm anh Bá, lúc đó là sinh viên y khoa, chàng không ở lâu quá một ngày vì còn về Provence thăm Christiane.
Những háo hức đam mê của tuổi trẻ thật đáng yêu. Luân vừa cất bước vừa suy nghĩ miên man về quãng đời đã qua. Chàng ngắm con sông với bờ quai vắng vẻ. Những cây cầu trên con sông Seine còn quyện trong sương mù buổi sáng. Cảnh trí thật đẹp, thật quyến rũ nhưng không lưu luyến, không vương vấn hồn chàng bằng những bờ xa, những bến vắng mà chàng đã đến, đã đi trong cuộc đời hải nghiệp.
Chàng bước xuống cầu đi qua bờ tả ngạn. Chàng đứng lâu ở công viên nhỏ cạnh nhà thờ Saint Julien, chiêm ngưỡng nét đẹp của ngôi Vương cung Thánh đường trong ánh nắng ban mai. Luân tiếp tục đi về khu Latin, giờ này các tiệm sách trên đường Mich còn đóng cửa. Chàng ghé vào một Bistro, người hầu bàn mang đến cho chàng một tách cà phê. Luân uống ngụm cà phê đầu tiên trong ngày, nhắm mắt, cà phê ngon thật, đen sánh. Bỗng nhiên ký ức mạnh mẽ từ đâu kéo về chàng thấy lại hình ảnh một quán nước tiêu điều và đổ nát ở chân dốc cây cầu nhỏ Đông Ba… Thành phố Huế, cảnh vật Huế cũng tiêu điều và đổ nát trong cái Tết Mậu Thân. Do một tình cờ hãn hữu, duyên đoàn Hải Quân của chàng trong chuyến hải hành từ Đà Nẳng ra Cửa Việt vào cuối tháng 1, 1968 đã vào Cửa Thuận An để tránh biển động. Bất thần cuộc tấn công Mậu Thân xảy ra khiến đơn vị Luân đã tham chiến ở mặt trận Huế ngay từ đầu. Đoàn ghe Duyên đoàn, một hạt cát trong trận chiến Huế, đã chiến đấu ròng rã cùng các đơn vị Bộ Binh để giải tỏa khu vực, từ Bao Vinh lên tới cửa thành Đông Ba, dọc theo con sông Hàng Bè, Duyên đoàn đã giữ được trục liên lạc đường sông giữa Huế và cửa biển Thuận An để nhận lãnh những tiếp liệu hiếm hoi cho những người lính Sư đoàn I đang chiến đấu trong cực kỳ khó khăn. Huế hồi sinh khi lá quốc kỳ thân yêu cờ vàng ba sọc đỏ tung bay phất phới trên kỳ đài Phú Văn Lâu, ngày 24 tháng hai 1968. Tuy nhiên thành phố vẫn chưa gượng dậy được sau cái Tết thảm khốc. Trong điêu tàn và giá buốt của mùa đông Cố Đô, Luân uống ngụm cà phê nóng đầu tiên sau gần sáu tuần lễ chiến đấu liên tục. Duyên đoàn Hải quân vốn là đơn vị nhẹ, không được trang bị vũ khí nặng, nên tổn thất rất lớn. Luân không thể nào tưởng tượng nổi, chỉ ba năm sau khi hồi hương, chàng đã bị ném vào cơn lốc chiến tranh tàn khốc như vậy. Người lính Bộ binh khắc khổ, cùng ngồi trong quán, ngậm ngùi tâm sự “thiếu úy ở Sài Gòn ra chứ tụi tui ở Huế, vợ con ở Huế hết, chừ đứa thì thất lạc, đứa thì chết, đau xót lắm thiếu úy ơi”. Ôi, vị đắng của tách cà phê gạo rang hôm nào hình như ngọt ngào hơn cái cay đắng của quê hương chàng!

Bistro đã bắt đầu đông khách, Luân trả tiền và bước ra khỏi quán. Chàng ngắm phố xá hai bên đường Bonaparte, chàng dừng lại trước nhà thờ Saint-Germain-des-Prés. Chàng bước vào bên trong giáo đường, đến trước tượng Đức Mẹ Notre Dame de Consolation. Những ngọn nến cầu nguyện lung linh, phả một ánh sáng huyền hoặc lên khuôn mặt bức tượng. Chàng đứng yên. Nét mặt thanh tú của người bạn gái năm xưa thấp thoáng trong trí nhớ. Chàng quen với Christiane năm chàng được học bổng về học Droit Maritime ở Bordeaux. Chàng từ giã cuộc sống hải hồ. Bởi vì, đôi khi “gió hỡi gió, phong trần ta đã chán”. Mùa giáng sinh của năm học đầu tiên, chàng theo bạn về ăn Noel tại Digne và chàng được giới thiệu với Christiane. Hai người mến nhau từ dạo ấy. Christiane đang học năm cuối trung học. Cuối năm cử nhân II, sinh viên theo thương thuyền để thực tập về những sinh hoạt liên quan đến luật hàng hải. Mộng hải hồ tưởng chừng như đã lãng quên bổng sống dậy. Tiếng gọi của biển khơi thôi thúc quá, bây giờ thì Luân biết chàng không thể nào xa rời hải nghiệp, mặc dầu ngành Droit Maritime chắc chắn sẽ cho chàng một cuộc sống sung túc, bình dị. Chàng xin nghỉ học, làm sĩ quan đương phiên cho một thương thuyền viễn dương chạy tuyến Bắc Âu-Nam Mỹ. Chàng đã nhiều lần theo Christiane về thăm quê quán nàng, vùng thung lũng nắng ấm Valensole “La Vallée Ensoleillée”. Mùi hương lavande như còn phảng phất. Rồi chàng quyết định hồi hương, lần gặp cuối cùng ở Montpellier-Christiane đang học đại học ở đó, chàng và Christiane chỉ giữ im lặng, hai tâm hồn đã giao cảm… Chàng đã nắm tay Christiane thì thầm “Combien je t’aime, combien je te veux… pure et sainte… “ Tình cảm hai người đẹp như mây trời và lãng mạn như một áng thơ cổ điển, chàng chưa một lần… hôn môi Christiane. Về Việt Nam, chàng còn giữ liên lạc với nàng cho đến ngày nhập ngũ. Ánh nến vẫn lung linh, chàng thầm ước cho nắng vẫn vàng trên thung lũng Valensole.
Khi Luân đến quán cà phê quen ở đường Saint Benoit thì đã thấy anh Bá ngồi đợi trong quán. Anh Bá đã nhiều lần sang thăm Luân ở Canada. Anh Bá dặn dò Luân về ở chơi lâu với anh sau vụ đám cưới. Anh đã về hưu năm ngoái nên có rất nhiều thì giờ để đưa Luân đi thăm lại nước Pháp. Sau khi ăn trưa, anh đưa chàng đến nhà ga và hai anh em chia tay.
Xe lửa chuyển bánh, Luân thấm mệt, có lẻ vì sự khác biệt giờ giấc giữa Canada và Pháp. Chàng nghĩ tới Đạt, về cuộc gặp gở lần cuối ở Việt Nam…
Luân và Đạt cùng ở chung một giang đoàn thủy bộ ở Cà Mau năm 1969. Thời điểm này Mỹ đang đẩy mạnh kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh để rút quân đội Mỹ về nước. Đầu năm 1970, Đạt thuyên chuyển về Hạm Đội, phục vụ trên một Dương vận hạm loại LST. Tháng 3, 1970, Mỹ đở đầu cho Lon Nol đảo chánh ông Hoàng Sihanouk. Tình hình Cao Miên càng ngày càng tồi tệ. Người Việt sinh sống an lành với dân Miên từ bao đời ở xứ chùa Tháp bị công khai khủng bố, cáp duồn.
Tháng 5, 1970, quân lực VNCH bắt đầu chiến dịch giải cứu và hồi hương đồng bào. Lực lượng Thủy bộ của Luân đánh thốc qua biên giới, hành quân ngược dòng sông Mékong, lên tận thủ đô Nam Vang, yểm trợ cho công tác hồi hương đồng bào tại hai tụ điểm Nam Vang và Neak Luong trên bờ Mékong.
Trong khi đó, Đạt tham gia chiến dịch tại vùng vịnh Thái Lan. Đồng bào được tập trung về cảng Sihanouk Ville, tạm trú trong các tu viện, trường học để đợi chiến hạm HQVN di tản. Suốt chiến dịch Đạt đã làm công việc với rất nhiều nữ tu để điều hành công tác cứu trợ. Vào khoảng cuối tháng 5, 1970, chiến dịch chấm dứt với gần một trăm ngàn đồng bào được hồi hương và tái định cư.
Năm 1974, chàng và Đạt cùng thụ huấn khóa Tham Mưu trung cấp Hải Quân. Mãn khóa, Đạt được đề cử chức vụ Hạm Phó một hải vận hạm. Luân thuyên chuyển về Tân Châu với chức vụ Chỉ huy phó giang đoàn tuần thám. Giang đoàn trang bị toàn loại giang tốc đỉnh P.B.R với vận tốc cực nhanh trên sông. Thời gian nầy cường độ chiến tranh rất khốc liệt song song với việc rút quân gia tăng của Mỹ. Hải lộ sông Mékong từ biên giới Tân Châu qua Nam Vang bị áp lực nặng của Khmer đỏ, có những tháng không một thương thuyền tiếp tế nào lên tới được cảng Nam Vang. Tháng 3, 1975 khi Luân về căn cứ Hải Quân Bình Thủy ở Cần Thơ để nhận lảnh 2 giang tốc đỉnh bổ sung cho đơn vị, chàng gặp Đạt, chiến hạm của Đạt đang ủi bải tại căn cứ. Chiến hạm vừa từ Sihanouk Ville quay về trong một công tác di tản khẩn cấp các viên chức cao cấp Cao Miên lẫn các nữ tu thuộc tu viện mà Đạt đã công tác năm 1970.
Đạt kể, một vị nữ tu đã kín đáo gặp chàng trên chiến hạm, bà từ tu viện Nam Vang trở về Sihanouk Ville trước khi đường bộ bị cắt đứt. Tu viện Nam Vang còn lại 4 vị nữ tu tình nguyện ở lại để chăm sóc các trẻ tàn tật vô gia đình. Tình hình Nam Vang rất bi đát tại các khu vực Khmer đỏ chiếm đóng, chúng đã bắt đầu hành quyết các tu sĩ, nữ tu, cùng các nhà sư Phật giáo. Bà trao cho Đạt tập nhật ký của vị nữ tu đã tình nguyện ở lại Nam Vang. Đạt vô cùng ngạc nhiên và bàng hoàng. Đạt nhớ rõ vị nữ tu đã cộng tác cùng chàng trong công cuộc cứu trợ của 5 năm trước, nhưng chỉ ngần ấy thôi. Đạt luôn luôn kính trọng và nghiêm túc với các vị.
Nhật ký ghi lại các xáo trộn, đột biến tâm linh kể từ ngày vị nữ tu… gặp Đạt và cảm thấy đã phạm tội vì đã xa rời thánh ý để bị cuốn hút vào những hệ lụy, những vướng mắc trần tục. Sự dằn co giữa tình yêu thánh giá và những tình cảm luyến ái trần thế thật day dứt và gay go, cuối cùng nữ tu phải thú nhận cùng mẹ bề trên để mong được cứu vớt. Bề trên đã gởi nữ tu về tu viện Nam Vang năm 1971, ở đấy có bệnh xá chữa trị cho các trẻ em bị thương tật về chiến tranh. Quả nhiên, Ơn trên đã đáp ứng sự cầu nguyện chân thành của nữ tu. Với khung cảnh mới, với trách vụ mới, Đức Tin Mặc Khải đã trở lại với con tim thánh thiện, sự mầu nhiệm đã xảy ra, vị nữ tu đã khôi phục trên phương diện tâm linh. Trang cuối, bà ghi “nếu số phận khiến cuốn nhật ký này đến được tay ông thì đó là chứng tích của Phép lạ cứu rỗi mà Thiên Chúa đã ân sủng cho tôi. Tôi đã vấp ngã trên con đường đức tin và Thiên Chúa đã thương yêu nâng đỡ tôi dậy khiến tôi vững vàng tiếp tục dấn bước. Xin chào từ biệt ông, con người trung chính mà Thượng Đế đã chọn để cho tôi được thử thách. Tôi hằng cầu nguyện cho ông”.
Nghe Đạt kể tới đây, Luân biết định mệnh đã gọi đích danh chàng… ôi! thiện tai. Tận đáy cùng của ký ức, hình ảnh của một tu viện cũ kỷ, nằm im bóng ở một bến bờ hoang liêu, Port Moresby, Nouvelle Guinée, lại hiển hiện với bóng dáng của những vị nữ tu áo dòng trắng người Pháp cô đơn, yên lặng nhìn theo con tàu viễn du mang quốc kỳ Pháp của chàng ra khơi. Hình ảnh ấy đã ghi sâu vào cõi vô thức của tâm hồn chàng khiến chàng luôn bị ám ảnh và mơ hồ chờ đợi một điều gì sẽ xảy ra. Bây giờ thì đã rõ rệt, định mệnh đã dùng sự an nguy của vị nữ tu xa lạ để thách đố chàng. Chàng quyết định dấn thân… “Tau biết rõ địa điểm của tu viện, còn giang hành trên sông Mékong tau nắm rất vững, mình đi!”
Đạt theo Luân lái giang đỉnh về Tân Châu, Luân tính toán nhanh trong đầu về giờ các con nước thủy triều, giờ trăng mọc và lặn trong đêm, vị trí của Khmer đỏ dọc theo sông Mékong… Về căn cứ Luân trình bày với viên sĩ quan chỉ huy về ý định giải cứu các vị nữ tu ở tu viện Nam Vang đúng như chàng dự đoán, người sĩ quan hào hiệp này đã không ngăn cản.
Luân thảo luận qua chi tiết hành quân với ông trên tấm bản đồ quân sự U.T.M, cũng may vào lúc này cứ điểm Neak Lương nằm trên sông Mékong vẫn còn nằm trong tay quân chính phủ, giang đoàn Luân vẫn bí mật vượt biên để yểm trợ cho quân bạn đồng thời để phục kích tấn công các đường dây kinh tài của địch.
Luân giang hành qua khỏi Neak Lương vào hai giờ khuya, ba giang tốc đỉnh tiếp tục di chuyển cho đến 5 giờ sáng thì Luân hướng dẫn các PBR vào ẩn núp trong các con rạch rậm rạp ven sông Mékong. Thời gian chậm chạp trôi qua, đến 7 giờ đêm giang đỉnh bắt đầu di chuyển đến mục tiêu.

Hợp đoàn đến tọa độ đổ quân khoảng một giờ khuya, địa điểm này cách tu viện khoảng 300 thước, về hướng hạ dòng. Từ đây về Nam Vang chỉ còn 10 cây số đường sông. Thành phố Nam Vang đang bị pháo kích dữ dội, hàng loạt hỏa tiển 122 ly đổ xuống thành phố, nhiều khu vực bị thui rụi, lửa cháy rực trời… Khmer đỏ đang nổ lực tấn công thủ đô để dứt điểm.
Toán đột kích gồm 5 người kể cả Luân, Luân thận trọng mở đường, chàng tiến thẳng góc với bờ sông, sâu vào đất liền khoảng 100 thước mới đổi hướng tiến về tu viện.
Một toán Khmer đỏ đang dừng hút thuốc, tán gẩu trước cửa tu viện, chúng hò reo thích thú nhìn thành phố Nam Vang đang bốc cháy. Luân ra hiệu cho viên thượng sĩ phụ tá, cả đám im lặng quan sát vòng đai tu viện. Kinh nghiệm trận mạc đã dạy, khinh địch và khinh suất là chết. Viên thượng sĩ phát hiện-với ống nhòm hồng ngoại tuyến-hai tên Khmer đang đứng gác khuất trong bóng đêm dày đặc.
Luân và viên thượng sĩ bò rất chậm về phía địch từ hai hướng khác nhau. Những tiếng nổ của hỏa tiển pháo kích đã át hẳn tiếng nổ của hai khẩu súng hảm thanh. Những tên còn lại được thanh toán gọn nhờ yếu tố bất ngờ.
Viên thượng sĩ và 2 đoàn viên ở lại bên ngoài, Luân và Đạt đột nhập vào tu viện, bóng tối mênh mông và im lặng. Luân thận trọng quan sát, chàng phát hiện hai bẩy lựu đạn.
Tu viện bị đập phá, hư hại rất nhiều. Luân đi vào cánh trái của tu viện, chàng nghe tiếng người rì rầm trong căn phòng leo lét ánh nến, Luân tông cửa, sẳn sàng tác xạ, ồ bốn vị nữ tu đang thì thầm cầu nguyện. Luân ra dấu cho Đạt vào phòng, một vị nữ tu đăm đăm nhìn Đạt rồi ngất xỉu. Luân vắn tắt báo cho một vị mà chàng đoán là bề trên vì dáng dấp uy nghi của bà về công tác của chàng… vị bề trên cho chàng biết Khmer đỏ đã đuổi hết các trẻ ra khỏi tu viện cả tuần, còn các bà thì bị chúng giam giữ.
Luân lấy nước lạnh cứu tỉnh vị nữ tu. Một đôi mắt mở ra nhìn chàng, ánh mắt như xác tín cùng Luân, con người đôi khi vẫn vượt thắng được số mệnh.
Luân cùng viên thượng sĩ hướng dẩn mọi người di chuyển đến điểm hẹn với các giang tốc đỉnh. Từ đó về đến Neak Lương bề ngang sông Mékong rất rộng, qua khỏi Neak Lương, hướng về biên giới Việt Nam, có đoạn bề ngang rất hẹp. Mặt trời đã lên cao, toán giang đỉnh bị phục kích khi vừa qua khỏi Neak Lương, lưới đạn dày đặc. Nhờ vào vận tốc cực nhanh và khả năng vận chuyển dể dàng 2 PBR đi đầu chỉ bị thiệt hại nhẹ, giang đỉnh Luân đi cuối bị trúng đạn B40, một xạ thủ đại liên bị tử thương. Luân bị trúng mảnh đạn vào mặt, gần đến biên giới, áp lực phục kích giảm dần.
Về đến căn cứ Luân bảo Đạt đưa ngay các vị nữ tu về Cần Thơ bằng xe đò cùng với Đạt, vì chiến hạm của Đạt còn ở đó. Luân lo tải thương, bổ sung thêm đạn dược, nhiên liệu cho giang đỉnh rồi đi nhận công tác ở địa phận tỉnh Hồng Ngự.
Chàng và Đạt không gặp nhau cho tới hôm nay.
Vợ chồng Đạt đón Luân tại nhà ga Calais. Vợ Đạt bảo ngày mai đám cưới của cháu gái sẽ dành cho Luân một ngạc nhiên. Đạt chỉ mĩm cười kín đáo. Sau buổi cơm tối rất vui, Luân đi nằm. Chàng mơ thấy vợ chàng dẫn con nhỏ đi thăm chàng ở trại tù cải tạo. Tỉnh dậy, chàng giật mình toát mồ hôi, không phải vì ký ức tù đày, mà vì chàng đã quên gởi postcard về cho vợ con như đã hứa..
Hôn lễ cử hành tại một ngôi nhà thờ nhỏ ở làng Saint Omer, cách thị trấn Calais một giờ xe hơi. Sau thánh lễ, hai họ qua tòa thị chính nhỏ xíu bên cạnh làm lễ ký hôn thú, rồi uống rượu mừng.
Luân ra vườn, ngồi dưới một tàng cây lớn, chàng nhắm mắt dưỡng thần. Bỗng một giọng nói nhẹ nhàng như sương khói: “Chào ông, ông Luân, cảm tạ thượng đế đã cho tôi được gặp ông”. Luân ngạc nhiên nhìn lên, một vị nữ tu dáng dấp thật thanh thoát đang chắp tay mĩm cười nhu mì nhìn chàng. Luân đứng bật dậy, chàng nhìn ánh mắt vị nữ tu. Đôi mắt trong sáng quá, thanh cao quá, thánh thiện quá. Chàng cảm thấy một niềm vui khôn tả tràn ngập lấy tâm hồn chàng!
Chàng cùng vị nữ tu đi dạo trên con đường làng tĩnh mịch. Chàng nói về những bờ xa, biển vắng mà chàng đã đi qua. Chàng kể chuyện về một tu viện ở một chốn thật xa xăm. Chàng kể về những cánh đồng Lavande ở chân dãy núi Alpes, về xứ sở thân yêu và đau thương của chàng… vị nữ tu yên lặng nghe, chàng biết bà lấy lại sự bình an cho tâm hồn đã từ lâu. Chàng biết bà đã được ân sủng cứu rỗi qua cơn thử thách, chàng cảm nhận những điều đó trong nỗi im lặng thanh khiết của bà. Qua ngôn ngữ của im lặng, chàng biết giữa tâm hồn thánh thiện xuất thế và những con người chính trực đã có một nối kết tâm linh thuần khiết và nhiệm mầu.
Trên chuyến xe lửa trở lại Paris, Luân biết Luân sẽ rủ anh Bá đi Provence với chàng. Luân sẽ ghé Digne thăm ngôi trường cũ của Christiane để hỏi thăm tin tức nàng. Luân sẽ trở về Valensole để thăm lại mái nhà xưa với những cánh đồng lavande. Chắc chắn Luân sẽ gặp lại Christiane, chàng sẽ khoe với bạn hình ảnh vợ con chàng và sẽ hỏi thăm thật nhiều, thật lâu về bạn, về chồng, về con của bạn. Chàng nghĩ đến người vợ thân yêu của chàng và nhất là đứa con gái chàng, nó sẽ kêu lên, với giọng Việt Nam ngọng nghịu, dễ thương của người Mỹ.
“Trời đất ơi! Ông già xấu xí và tội nghiệp của con cũng có romantic nữa à? Không tin được, không tin được.
Hoàng Mộng Giới

Wednesday, March 17, 2010

35 năm nhìn lại: TRƯỜNG XUÂN - TRƯỜNG XUÂN

TRƯỜNG XUÂN - TRƯỜNG XUÂN
Giao Chỉ - San Jose (VietTribune)

Tháng 4 năm 1975-Saigon / “ Một con tàu ngơ ngác ra khơi ” (Nam Lộc) / Một thuyền trưởng tuyệt vọng / Gần 4 ngàn hành khách của định mệnh / Cuộc hành trình không bờ bến / Vỏn vẹn 3 ngày hải hành trôi nổi / Hai người tự tử thủy táng / Hai đứa trẻ ra đời / Con tàu kéo Song An, cứu tinh số 1 / Thương thuyền nhân đạo Ðan Mạch, cứu tinh số 2 / Sau cùng, tàu Trường Xuân không chìm được kéo về Hồng Kông với thi hài của người khách cuối cùng : Ðại tá Wong A Sáng, sư đoàn 5 bộ binh / Câu chuyện 34 năm trước được kể lại vào dịp ghi dấu 35 năm sau (1975-2010 ). / Và giới thiệu người con gái của biển Ðông: Chiêu Anh. (Shining Light)
* * *
Có con tầu nằm trên bến đỗ...
Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hãng thương thuyền hàng hải lớn nhất là Vishipcoline của chủ nhân Trần đình Trường. Hiện ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel tại Nữu Ước.
Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30 năm kinh nghiệm hàng hải.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt. Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với cộng sản. Ông tìm đường ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong dùng được Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn. Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào cái tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới 29 tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh. Tàu Trường Xuân khởi hành 12 giờ trưa 30/4/75.
Lúc đó thủy thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ có vỏn vẹn 5 người. Có lẽ ông cần chừng 300 hay 400 hành khách, nhưng chưa có người nào.
Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975.

Saigon hấp hối:
Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cã 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự.
Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ đang bay di tản những phi vụ cuối cùng.
Nội các mới của Việt Nam Cộng Hòa họp bàn về việc bỏ súng và bàn giao. Ðài phát thanh Saigon chuẩn bị đọc những lời tuyên bố đau thương của tổng thống Dương văn Minh gửi người anh em phía bên kia , xin mời vào nói chuyện. Thủ tướng Vũ văn Mẫu kêu gọi người anh em đồng minh Hoa Kỳ phía bên này, xin vui lòng ra đi.
Giữa mùa hè chói chang, radio của quân đội Hoa Kỳ chơi bài Tuyết Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc trái gió trở trời. Ðài quân đội Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc quân hành trong tuyệt vọng.
Ðó là Saigon của đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân bụng đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu bốc cháy bên kho đạn Thành Tuy Hạ.

Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ:
Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai.
Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân.
Gia đình bà dược sĩ Saigon, mới ra trường năm 1972 đã thành những người khách không mời của chuyến hải hành vô định trên tàu Trường Xuân, ra đi xế chiều 30 tháng 4-1975.
Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 34 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 35 năm sau vào tháng năm 2010.
Trở lại với Trường Xuân:
Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề.
Hành khách không vé của Trường Xuân gồm đủ tất cả hai ba thế hệ Việt Nam Cộng Hòa, mọi thành phần, mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh. Ðủ cả ba ngành lập, hành và tư pháp. Có mặt sĩ nông công thương binh. Không hề thiếu nam phụ lão ấu. Các nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn. Chuyến hải hành vào chân trời vô định với một ông thuyền trưởng nhân đạo và hết sức kiên định. Những tay phụ tá tình nguyện rất xuất sắc và sau cùng định mệnh đã đưa 3,628 con người đi tìm tự do đến được bến tự do.
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã nói rằng Trường Xuân sẽ không thoát được nếu không có Song An. Song An là ai ? Ðây chỉ là tên con tàu kéo nhỏ bé đang trên đường từ Vũng Tàu về cảng Saigon. Anh già Trường Xuân đang mắc cạn bèn túm lấy đứa bé Song An đòi nó kéo. Vậy mà nó kéo được. Ra đến hải phận, cho đến lúc anh già Trường Xuân tự chạy được bác cháu mới chia tay. Lẽ dĩ nhiên câu chuyện hải hành của đêm dài 30 tháng 4-75 không giản dị như thế !
Với lửa cháy ngập trời Thành Tuy Hạ và tiếng súng đuổi theo trên sông Lòng Tào, đêm hôm đó là đêm dài nhất của cuộc đời Trường Xuân.
Khi anh già Trường Xuân từ giã cậu bé Song An trên đại dương, khách Trường Xuân góp tiền cho Song An trở về Saigon. Hai, ba bị tiền hàng chục triệu đồng Việt Nam đưa qua. Lái tàu Song An nói 1 câu kỳ diệu “ Thôi ! tiền nhiều quá, đủ rồi. Ðừng đưa nữa “.Trong đời chúng ta hiếm khi nào nghe được những lời nói đó.
Với tâm tình như vậy, tàu kéo Song An từ giã Trường Xuân. Tiếng còi tạm biệt trên trùng khơi nghe những nghẹn ngào.
Có vài hành khách bỏ Trường Xuân nhẩy theo Song An trở về Saigon. Trên 3,600 khách Trường Xuân ngó theo Song An nhỏ dần trên đường trở lại quê hương. Khóe miệng chợt thấy vị mặn. Ðây là nước biển sóng đánh bên thành tàu hay là nước mắt biệt ly.
Rồi con tàu Trường Xuân chạy 1 mình. Gần 4,000 hành khách. Không đủ nước, không có thức ăn. Máy móc trục trặc. Nước tràn vào khoang tàu. Sắt vụn vô tri dưới hầm tầu. Con người tuyệt vọng ở trên boong.
Hai người tự tử được thủy táng. Việt cộng phá hoại chỗ này. Máy tàu hư hỏng chỗ kia.
Con tàu vô định có thể sẽ là quan tài nổi. Một hỏa diệm sơn chưa nổ. Các tin tức bi quan được lệnh của thuyền trưởng phải dấu kín. Trường Xuân nín thở, ỳ ạch tiếp tục chạy. Chợt có tiếng kêu: “Có người rớt xuống biển.”
Ông thuyền trưởng Nam Ðịnh đứng im trên đài chỉ huy lặng người bất động. Nửa giờ trôi qua như 1 thế kỷ. Captain Phạm ngọc Lũy sau cùng ra lệnh quay tàu lại vớt người. Một quyết định vô vọng. Hành khách nói. Một quyết định sai lầm. Hành khách nói. Hy sinh 4,000 người để cứu 1 người là nhầm lẫn. Hành khách nói. Captain điên rồi.
Tại sao? Thuyền trưởng sau này trả lời. Tìm vớt 1 người để cứu 4,000 người.
Như vậy có thể hiểu rằng con tàu Trường Xuân đang là một hỏa diệm sơn sẵn sàng phun lửa nổi loạn. Hành động bình tĩnh quay tầu lại tìm 1 người là bài học nhân đạo cho mọi người và giữ cho được sự bình an của toàn thể con tàu.
Có thể Thượng Ðế trên cao đã nhìn thấy chuyện vớt người giửa biển của Trường Xuân nên đã đem lại vị cứu tinh số hai. Ðó là con tàu Ðan Mạch. Tiếng Trường Xuân kêu cứu vọng trên đại dương. Tàu Ðan Mạch trên đường viễn du hỏi rằng thế đã kêu hạm đội Mỹ chưa? Trả lời : “Có số đâu mà kêu.” Ðan Mạch thở dài. “Thôi chờ đó, chúng tôi sẽ đến tiếp tế và rước chừng 1,500 đàn bà trẻ con.”

Ra đời giữa trời biển mênh mông:
Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo.
Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi.
Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.

Trường Xuân: Ôi, Trường Xuân!
Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám ngưới đến bến tự do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời và nối tiếp.
Thoạt tiên tất cả được đưa về tạm trú ở Hồng Kông. Nhà chức trách Hương Cảng hứa hẹn sẽ không trả về Việt Nam.
Trước khi rời con tàu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đi thanh sát một vòng. Hình ảnh cảm động sau cùng là một người đàn ông mệt mỏi cúi xuống cõng bà mẹ già tê liệt. Trên khoang tàu mênh mông hiện chỉ còn là bãi rác. Một người đàn ông ạch đụi cõng mẹ qua tàu Ðan Mạch, quả thực là hình ảnh hết sức ngậm ngùi. Ðó là ông thiếu tá nhẩy dù Phan Huy Hoàng, sau này đưa mẹ về định cư tại Texas.
Khi vị thuyền trưởng rời tàu Trường Xuân thì nước đã tràn vào khoang máy. Vẫn còn dưới hầm, thân xác 1 ông già sẽ thủy táng theo con tàu.
Nhưng sau này được biết, khi người lên hết tàu Ðan Mạch, Trường Xuân ngập nước nhưng không chìm. Hai tháng sau được kéo về Hồng Kông, đi theo hành khách của nó.
Con rể của ông già nằm trên Trường Xuân đã nhận xác cha. Di hài vị dân biểu gốc Nùng của Việt Nam Cộng Hòa: Ðại tá Wong A Sáng của sư đoàn 5 bộ binh, một thời đồn trú tại Sông Mao. Con người và con tàu, cả hai đều làm xong nhiệm vụ cuối cùng cho hai chữ tự do.

Một thế hệ tương lai:
Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó.
Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học Parkson school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ. Trong một bản văn tự thuật bằng Anh ngữ, Chiêu Anh kể chuyện mình như sau.

“Con là Trường Xuân Baby. Từ biển cả, con là một thuyền nhân sống xót. Khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chạy xuống tầu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy. Trong cái đêm dài sâu thẳm, vào lúc 2 giờ sáng 2 tháng 5-75 con sanh ra đời. Ðó là giây phút của hãi hùng và hy vọng. Ðời con khởi sự vất vả. Mắt hài nhi không mở. Xương quai bị gẫy, vai bị cụp. Mẹ đói không có sữa cho con. Vị cam thảo ngọt bôi vào miệng sơ sinh vẫn còn ghi nhận cho đến ngày nay. Tầu Danish của thuyền trưởng Ðan Mạch Anton Martin Olsen đã cứu gia đình con và đưa vào nhà thương Anh Quốc tại Hồng Kông. Khai sanh của con với chứng chỉ công dân Denmark trên tầu MS Clara Maersk. Vì những giấy tờ này, tòa đại sứ Ðan Mạch lo cho cả gia đình định cư tại Canada trong 21 ngày. Con đã tiếp tục sống trong những ngày thơ ấu khó khăn vất vả như những gia đình tỵ nạn khác. Cùng với người anh hơn con 2 tuổi, chúng con cố sức học hành để xây dựng tương lai. Con xin được học bổng để theo ngành sáng tạo thời trang và tốt nghiệp 1998 với bằng danh dự tại đại học hàng đầu New York. Con bắt đầu làm việc cho các hãng thời trang nổi tiếng tại Paris, New York và San Francisco. Con đã có dịp đi đến tất cả các đô thị lớn nhỏ từ Âu châu, Á châu, Mỹ châu trong thế giới của ngành sáng tạo thời trang. Nhưng con luôn luôn nhớ rằng mãi mãi vẫn là một thuyền nhân sống xót, một Trường Xuân Baby.”

35 năm nhìn lại:
Kể từ tháng 4-75 cho đến tháng 4-2010 chúng ta có 35 năm nhìn lại. Mỗi năm chúng tôi sẽ chọn 1 nhân vật hay 1 sự kiện để giới thiệu.
Trên sân khấu CPA của San Jose tháng 5-2010, người đầu tiên được giới thiệu sẽ là cô Chiêu Anh, Shining Light.
Cô sẽ hiện diện với thân mẫu từ Canada, với bác thuyền trưởng Phạm ngọc Lũy 91 tuổi, với hình ảnh của Trường Xuân, của Song An, và của con tàu Ðan Mạch.

Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù. Chuyến đi của Trường Xuân.

Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Saigon tháng 4 đen
Bốn ngàn người vượt biển, Bỏ đất nước điêu linh. Trên con tàu vô định

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. 35 năm nhìn lại
Xem ai còn ai mất, Lệ tuôn khắp dặm trường. Bốn phương trời thế giới

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Gần bốn ngàn người sống.
Với ba mạng tử vong. 2 đứa bé lọt lòng. Giữa mênh mông trời biển

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Một thế kỷ vừa qua...
Tương lai rồi sáng chói. Chuyện này cần kể lại...

Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Ngàn năm còn nhớ mãi...
Giao Chỉ, San Jose

CUỘC PHIÊU LƯU CỦA DẾ MÈN XỨ THỦ-Phần 3


Phần 3 (tiếp theo và hết)
Dọc theo hai bên đường xích đạo, có một vòng đai rộng khoảng vài trăm cây số. Trong nghề hàng hải gọi là pot au noir, theo nghĩa hiện nay là để chỉ một vùng khí hậu bất ổn định, áp thấp nhiệt đới, hình tượng do các khối không khí nóng, ẩm hội tụ do gió alizé. Theo lời của một đàn anh người VN, cựu thuyền trưởng hàng hải Pháp, chử pot au noir có gốc tích từ thời chở nô lệ qua Mỹ châu. Nhiều khi gặp biển lặn đứng gió (mer d’huile), các tên thuyền trưởng ra lệnh hạ thuyền cứu nguy bắt dân nô lệ xuống chèo, kéo chiếc tàu buồm chở đầy người. Nhiều khi chở quá nhiều nô lệ, các tên thuyền trưởng dã man đó bèn quăng bớt người xuống biển cho nhẹ tàu!

Khi tàu chạy qua biển Caraïbe tới vịnh Colon, đến cửa kinh đào Panama thì neo lại chờ tới phiên mình. Kỷ sư Pháp Ferdinand de Lesseps khởi công xây dựng từ năm 1880 và người Mỹ hoàn thành năm 1914. Kinh đào Panama dài khoảng 80kms, nằm vắt ngang qua dãy núi, cao hơn mặt biển 26 m. Tàu muốn lên trên đó, phải leo qua 2 bậc ụ giống như cầu thang vậy. Hoa tiêu Panama đem tàu vô ụ ở đầu kinh. Có một toán chuyên viên vận chuyển tháp tùng, mình không quen không biết làm. Họ đóng ụ lại và bơm nước vô. Tàu được giử thăng bằng với 4 sợi dây cáp lớn như cườm tay từ 4 đầu xe lửa trang bị hệ thống kéo xả để giử cho con tàu nằm ngay ngắn trong ụ, nếu không khi bơm nước vô, sẽ xãy ra tai nạn. Đóng cửa ụ lại, bơm nước vô, đưa tàu lên cao. Lên tới bậc một, nhìn lại vịnh Colon, thấy các tàu đang thả neo nằm sâu phía dưới. Lại tiếp tục đóng ụ một, bơm nước vô như củ, lên tới bậc hai. Chẳng mấy chốc, mực nước ngang bằng với con kinh: mình đang ở 26 m cao hơn mặt biển đó! Mở cửa ụ, chạy qua tới đầu kinh phía bên kia, chun vô ụ, xuống vịnh Panama tới Thái Bình Dương.
Dân Nam Mỹ phần lớn nói tiếng Tây ban nha, phía bên Brazil, Argentine còn nói thêm tiếng Bồ đào nha. Nhiều nơi, họ đội nón rộng vành Sombrero như dân Mể. Đàn bà da đỏ thường đội nón nỉ giống như mấy ông già xưa bên mình trông thật lạ mắt.
Bến cảng đầu tiên là Buenaventura của xứ Colombie. Quán nhậu rất nhiều, chổ nào cũng mở nhạc ầm ỉ. Rời Colombie, qua Guayaquil của xứ Ecuador, trồng chuối bạt ngàn. Phong cảnh nên thơ, rất giống VN. Bầy phoques hải cẩu nằm phơi mình trên những ghềnh đá ở cửa biển. Ven theo bờ sông chạy vào cảng, có những nhà tranh lẩn khuất sau vườn làm tôi nhớ nhà quá chừng. Dân bản xứ kể cho tôi nghe, trước khi vác quài chuối lên vai, người phu khuân phải coi kỷ, có một loại rắn lục nhỏ bằng ngón tay, dài khoản 3 tấc núp trong đó, nếu không nó cắn trúng là chết. Tui không biết ở các đồn điền chuối bên mình có lại rắn này không
Khi xuyên xích đạo, trên tàu có tổ chức lể phát bằng theo truyền thống hàng hải. Nhiều thủy thủ cho đến lúc về hưu, chỉ hành nghề ở một phía bán cầu mà thôi. Theo thần thoại Hy Lạp, Neptune là thủy thần cầm cây chỉa ba cùng với vợ là Amphitrite do hai thủy thủ hóa trang, sẽ rửa tội, đặt cho mổi người tên một loài cá và sau đó phát bằng cho các thủy thủ lần đầu tiên xuyên xích đạo trong đó có tui. Ôi chao, thần Neptune bắt uống một ly cối cocktail ghê gớm, rượu chác pha dấm, whisky, tabasco, nước biển thêm đường rồi hè nhau quăng họ xuống piscine bơm đầy nước biển xích đạo! Bắt buộc phải uống, không được chạy trốn thì sau đó mới phát bằng. Ai cũng nhớ đời hết. Nhậu nhẹt đàn ca, xướng hát suốt đêm, vui hết sức. Tàu vẫn rẽ sóng chạy đều. Phía ngoài xa khơi kia, bên phải con tàu là quần đảo Galapagos gồm 13 đảo lớn, 17 đảo nhỏ, hiện là khu vực sinh thái đang được quốc tế bảo vệ.
Từ đó hướng xuống Perou, rất nhiều đàn cá dài mút mắt, óng ánh màu bạc dưới nắng, tàu chạy hoài mà không hết đàn cá. Ngoài xa kia, những tàu xưởng nổi to lớn làm cá hộp, với kỷ thuật tiên tiến, chỉ đánh bắt một loại cá nào đó mà thôi. Nó phát sóng trên một tần số đăc biệt của loại cá đó, kêu chúng đến rồi cuốn hút lên tàu. Trải qua tiến trình, cá sẽ được đóng hộp trên tàu. Về đến bến, là những kiện hàng cá hộp được tải xuống!
Tới cảng Callao của xứ Perou, nhìn các tàu cá về bến, phải lấy lưới bọc hết boong tàu lại vì bầy chim già đãy bằng cở gà tây, bay theo kiếm ăn ngộp trời. Có điều lạ là hải sản nhiều như vậy mà Perou lại không có chế ra . . . nước mắm. Ở đây, tha hồ ăn sea foods đủ loại, tươi mà rẻ quá chừng. Bên Pháp mắc lắm. Đầu bếp đi qua bến tàu cá, mua tôm hùm (lobster) mới vừa lưới đem vô bờ. Phần thì đem nướng lửa than, một mớ đem luộc chấm muối tiêu chanh, sauce mayonnaise, ngọt thịt quá chừng!
Ghé mấy cảng Perou, tui có đi thăm vài bộ lạc da đỏ nằm sâu phía trong núi. Bà hướng dẫn kể lại là có những bộ lạc cứ mỗi năm, tụ họp lại một lần làm lể . . . khóc suốt đêm! Chắc họ buồn cho số phận người da đỏ.
Hải cảng Valparaiso thuộc Chilie khá lớn, sinh họat sầm uất, dân tình dể thương. Thấy có một chiến hạm Pháp nằm trong bến, Thuyền trưởng bảo Cò Tàu Lieutenant Commissaire tên Daniel mang quà tặng cho Hạm Trưởng Pháp. Phong tục hàng hải Pháp dể thương chổ đó. Họ biết sự hiện diện của chiến hạm ở vùng biển xa xôi này là để bảo vệ các thương thuyền Pháp khi cần. Cò tàu này vốn là cựu trung úy hải quân Pháp. Sau đó, anh ta kể lại cho tui nghe, đây là lần thứ hai trong đời, anh mang quà tặng cho Hạm Trưởng. Lần thứ nhất, hồi còn trong quân ngủ, Chiến Hạm ghé bến cảng bên Phi châu. Hạm trưởng bảo anh mang quà tặng cho Hạm Trưởng Soái Hạm của quốc gia Phi Châu đó, hiện đang có mặt trong cảng.
Lên tàu, anh trình lá thơ của Hạm Trưởng Pháp và xin gặp Soái hạm trưởng để trao quà. Gần 20 phút ngồi chờ trong bộ lể phục hải quân, anh ta muốn chết ngộp vì tàu hư... hệ thống điều hòa không khí. Anh kể: Khi Soái Hạm Trưởng mặc đại lể ra đón tiếp, lon lá dày cộm nơi cổ tay, mề đay đầy ngực, áo trắng, cà vạt, trông oai vệ hết sức mà nhìn kỷ lại, thì ra là... thằng bạn đồng khóa hồi còn trong trường Hải quân bên Pháp. Anh chàng này được quốc gia gởi đi du học, do H.Q. Pháp đào tạo, sau đó trở về phục vụ đất nước và lên cấp lẹ hơn sao xẹt. Nghi thức lể lạc xong xuôi, hết còn danh xưng chức tước, hai bên bèn gọi nhau mầy tao như xưa, kéo nhau vô phòng ăn S.Q. uống rượu. Anh kể tiếp, hắn xin lổi tao vì hệ thống máy lạnh chưa có cơ phận thay thế, nên tàu còn nằm chờ ở đây. Mồ hôi nhể nhại, hắn đề nghị trời nóng quá (Phi Châu mà!) thôi mày lột áo ra cho mát rồi uống. Để làm gương, anh ta lột áo veste ra trước. Trời đất thiên địa ơi! Tưởng là cái áo sơ mi trắng, cà vạt bên trong, ai dè chỉ có chút xíu... cái cổ áo với cà vạt thôi, không có lưng mà cũng không có hai vạt phía trước áo, trông tức cười không nói được! Ngộ biến phải tùng quyền hihihi
Tui cũng kể cho Cò Tàu Daniel nghe, hồi còn nội trú trong trường hàng hải, tui có thằng bạn chung phòng bên nước Phi châu gởi qua học theo chương trình đào tạo Thuyền trưởng. Có lẻ là con ông cháu cha, nhà giàu sao đó, thay vì lo học, tiền bạc rủng rỉnh, đêm nào cũng như đêm nấy, anh ta đi chơi đến 1, 2 giờ sáng. Tui nói sao mầy không lo học, mai mốt làm sao xuống tàu làm việc, thì nó trả lời: Tao qua đây học, để về xứ làm... Bộ Trưởng chứ đâu có phải để đi tàu! Thật vậy, mấy năm sau, hắn có gởi cho tui bức thư, cho biết hiện là Bộ Trưởng Bộ Ngư Nghiệp, rủ tui qua đó làm cố vấn cho hắn, lương bổng sẽ rất hậu hỉ. Lúc đó, tui đang làm Thuyền Trưởng lại suy nghĩ, qua bên đó rồi mấy đứa con làm sao đi học nên tui từ chối...

Trở lại chuyện Nam Mỹ, dân tình ở đây rất tự nhiên, vui vẻ, ồn ào, thích múa hát, các điệu nhạc nóng bỏng, vui tươi như cha cha cha, mambo, salsa... Mấy bà vừa lựa hàng, vừa nhún nhảy, lắc lư theo tiếng nhạc thấy ngộ ghê. Kế đến là chổ nào cũng có con nít đá banh, trên đường, trong hẻm, góc phố, chổ nào trống là có đá banh. Sau cùng, ở các ngã tư lớn của thành phố, có nhiều tiệm ăn, tạp hóa của người Tàu.
Lần khác, lên sông Amazone bên Brazil, tới bến nọ, thấy có một tiệm nước nữa, có bày thêm bàn bên ngoài. Kêu một ly xây chừng, xổ vài câu xả giao tiếng Quảng đông còn sót lại trong trí nhớ lúc ở Đại học xá Minh Mạng, ngã sáu Chợ lớn: Chủ sành tài lủ, nị hủ ma, cấm dạch dậu mụ xíu xức, nị úc khị hầy bính tù. May phước, ông chủ đúng người Quảng đông, khoái quá khỏi lấy tiền cà phê luôn. Tui hỏi thì được, mà hỏi lại là tui... kẹt liền. Tới chừng ông nói tùm lum, tui bí qua bèn trã lời tiếng Anh thì ông ta không hiểu mà nói lại bằng tiếng... Sì! (Spanish) Trời đất ơi, vốn liếng có mấy chử nghèo nàn, chưa đầy lá mít, hát được vài câu Cielito Lindo, Besame mucho mới từ lúc chạy qua Nam Mỹ thôi, tôi ngọng! Uống lẹ tách cà phê, tố chè, tằng tài dạch chôi lầy nhẩm thím, bye bye.
Sau cùng, tàu ghé cảng bên Nam Dương, 80% là đạo Hồi không ăn thịt heo. Người Triều châu ở đây khá đông. Vào thời điểm đó, Hồi giáo đang trong thời kỳ ăn chay một tháng Ramadan. Vậy mà tui cũng được đại lý chỉ dẫn đến một tiệm nước không mở cửa hẳn, chỉ hé một bên do lể nói trên. Lại thấy treo cành cây nhỏ dấu hiệu hôm nay có món đặc biệt duy nhất bán một ngày trong tuần. Cũng hên, hôm nay đúng ngày mở cửa. Ngôn ngử bất đồng, tui chia liền động từ to Quơ, hand language. Chủ khách hai bên ráng hiểu nhau, OK, OK rân trời. Chịu trận bánh mì, bích tết, phó mách cả tháng rồi mà! Trong tiệm bày biện trên bàn ống đủa, muổng, tương ớt, xì dầu y hệt như bên mình. Tui tìm lại được hương vị xưa, trong cảnh củ. Ăn bánh bao, xíu mại, hủ tiếu có hẹ nửa, thím sực tô mì, sì sụp húp nước lèo đến nổi không biết mình gốc Việt hay Tàu. Thêm ly cà phê là đúng tiêu chuẩn...
Từ Valparaiso, được lệnh trở lại Antofagasta của xứ Perou. Lấy hàng cho Hòa Lan xong, qua kinh Panama trở ra Đại Tây Dương, tới tam giác quỷ, lại được xem phim Charlot. Đúng là Tam giác quỷ! Trưa hôm đó, Trưởng phiên hải hành Daniel bổng thấy có một người đàn bà Âu Mỹ, tóc dài màu vàng, bập bềnh trên sóng nước xa xa, đang chới với vẩy tay cầu cứu. Anh vội vàng báo cho CDT. Ông lập tức lên đài chỉ huy, lấy ống dòm quan sát cẩn thận trước khi ra lệnh báo động vận chuyển cứu người. Cả tàu đứng trên boong theo dỏi việc cấp cứu. Kìa, cô ta đang nằm ngửa trên sóng, rành rành sẳn đúc một tòa thiên nhiên, lồ lộ với những đường nét hấp dẩn. Hai cánh tay trong tư thế còn như đang ôm chặc người tình, đôi môi khêu gợi chết người mặc cho sóng biển dập dùi thân xác: một nàng búp bê bằng... cao su, bơm hơi, cở như người thật, một cô bạn đồng hành của anh chàng thủy thủ độc thân, đa tình nào đó! Có lẻ anh chán nản với người đẹp... câm, thiếu chất... người nên đem quăng xuống biển.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!
Lạ gì cái thứ đàn ông,
Lúc thương nựng nịu, khi xong... quăng liền.
Trên phương diện hàng hải, bản đồ Đại Tây Dương, nối hai bờ Đông Tây, có tỉ lệ rất nhỏ, chỉ để ghi lại các tọa độ hằng ngày lúc 12 giờ trưa và tính vận tốc trung bình mà thôi, chứ không làm point, định vị được. Với nhiệm vụ SQ hải hành, tui phải chế canevas, hệ thống tọa độ ngang dọc gồm các vỉ tuyến parallèles và kinh tuyến méridiens của khu vực đang hải hành với tỉ lệ lớn hơn để vẻ Rv và tính (Hv – He), Zv trên đó (nhắc lại chút kỷ niệm cho vui với các bạn đồng khóa, đây là bài Carte Marine học với thầy Ducasse kính mến, chỉ dạy tận tình g = e sec Lm, L = mcos V, e = msin V, TgV = e/ L . . .). Hồi đó học là học thôi, đâu ngờ có ngày đem ra xài!
Có lần, băng qua Guadeloupe sau mấy ngày, trung bình 17 noeuds, tự nhiên hôm qua sụt xuống còn có 11! Tui và thằng Lieutenant kia xách sextant ra đo lại một lượt, có mặt CDT và Sếp Máy. Kết quả y hệt. Không hiểu nổi! Sau cùng mới tìm ra nguyên nhân: đêm qua tàu đụng con cá voi rồi nó mắc kẹt, nằm ngang phía trước mủi chổ cái bulbe tròn! Cũng ở gần tam giác quỷ nửa! Cá voi khi ngủ, nằm là đà trên mặt nước. Chỉ vậy thôi mà vận tốc giảm khủng khiếp! Sếp máy thở phào nhẹ nhỏm.
Trên phương diện kế toán của hãng tàu, cứ chạy tăng thêm được 1 noeud thì cứ sau 24 giờ, sẽ đến bến sớm hơn khoảng 1 tiếng. Từ Pháp chạy qua Viển Đông, chừng 22 ngày thì sớm hơn 22 giờ, nghỉa là tàu sẽ cập bến sớm hơn một ngày, biết bao nhiêu là tiền của...
Nhân tiện, tui xin được ghi lại lòng biết ơn của dân tị nạn VN như tôi đối với CDT FOLLIGUET, thuyền trưởng tàu Pháp Chevalier Valbelle thuộc hãng Chargeurs Réunis, đã nhiều lần cứu vớt thuyền nhân trên biển Nam Hải. Tàu Chevalier Valbelle chạy đường Âu châu, Địa trung hải qua Viển Đông. Mổi chuyến trung bình hai tháng. Tui có người bạn ở chung trong cải tạo. Quả đất tròn, qua Pháp gặp lại nhau. Tui đem anh vô hảng, làm phụ bếp trên tàu. Năm 1984, khi tới bến Barcelona thuộc Tây ban nha, anh chỉ cho tui, tàu Chevalier Valbelle này đã cứu ghe chở cả trăm người vượt biên của anh đúng lúc sắp chìm, chờ chết. Sau đó, tui dắt anh qua xin gặp CDT để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình. Biết tui là người VN, làm việc trên tàu Pháp đậu kế bên, ông ta vui vẻ, chỉ những giấy ban khen của hãng treo đầy trong phòng khách vì đã nhìều lần cứu vớt sinh mạng con người lâm nguy trên biển. Ông kể lại, mổi khi tàu chạy ngang qua vùng này, ông thường rà sát tới giới hạn hải phận của VN. Bận đi, bận về, lần nào ông cũng vớt cả trăm người...
Từ ngoài khơi, vào gần Ouessant, sắp lên đường rầy, thì đài kiểm báo duyên hải Pháp đã gọi trên canal 16, chiếc tàu đang ở tọa độ đó,tên gì, quốc tịch, loại tàu và hàng hóa gì, từ đâu tới etc... Đây là nói chuyện đời xưa, chứ bây giờ vừa rời bến, đi tới đâu là thiên hạ ai cũng biết hết (
http://marinetraffic.com/).
Bỏ hàng bên Hòa Lan xong, chạy về Dunkerque rồi qua Saint Malo, Nantes, St Nazaire chở hàng đi vài nước trong Địa trung hải, sau đó xuyên kinh đào Suez qua liên bang Á Rập ở Trung Đông. Tàu tách bến, hướng về Nam, dọc theo vịnh Gascogne ngoài khơi Bordeaux, rồi cập theo bờ biển Bồ đào nha xuyên qua eo biển Gibraltar vào Địa Trung Hải. Tàu chở khách băng ngang, qua lại, nối liền cảng Tanger của Maroc Bắc Phi với Tarifa Âu châu, y như eo biển Pas de Calais trên miền Bắc.
Thủy triều Địa Trung Hải chừng 50 cm, trái hẳn với miền Bắc Pháp. Chẳng hạn như ở Mont Saint Michel, một trung tâm du lịch được xếp vào di sản lịch sử, bải biển rất lài, nước dâng 8m trong vòng 6 giờ, ngựa chạy không kịp. Việc canh giữ du khách không được ra xa bờ thật nghiêm nhặt.
Tàu lướt sóng êm giửa trời nước bao la, phía Nam của đảo Las Palmas, hướng về mủi Spartivento Sardaigne của Ý. Sau đó, băng qua biển Andriatique nhắm mủi Matapan của Hi lạp. Một nử tu viện nằm cheo leo trên sườn núi ngay Matapan. Mỗi khi thấy có tàu đi qua, các Sơ thường giựt chuông rộn rã rồi chạy ra vẩy tay chào mừng thật là cảm động. Địa Trung Hải có những phong tục hết sức dể thương, chẳng hạn như ở eo biển Messina nằm giửa đảo Sicile và Ý. Khi tàu chạy qua đây, mình viết thơ và thêm $ 5 bỏ vô chai, đóng nút lại rồi quăng xuống biển. Dân ở đây sẽ vớt lên rồi gởi về nhà cho gia đình mình. Ngay cửa vào, có hòn đảo núi lửa tên Stromboli, cứ 15 phút thì phun lửa. Miệng núi lửa nằm lệch một bên sườn núi . Phía bên kia, thiên hạ vẩn cất nhà, trồng nho. Trên đảo Sicile, có ngọn núi lửa Etna, thỉnh thoảng nổi giận. Cách đây khoản 26 năm, trên đường Izmir bên Thổ nhỉ kỳ về Marseille, từ xa trên mặt biển, nhìn cột lửa cao ngất trời, mới thấy sức mạnh thiên nhiên thật khủng khiếp. Tui có ghé bến Palermo, trên đảo Sicile. Thành phố Syracuse, bên phía đông của đảo Sicile, nơi sinh trưởng và mất đi của nhà toán học kỳ tài, liên hệ mật thiết đến môn Stabilité và Calcul d’assiette trong ngành hàng hải, người đã tìm ra nguyên tắc này : mọi vật nhúng chìm trong chất lỏng đều bị một sức đẩy từ dưới lên trên đó . . . : quí vị biết ai rồi phải không ? Eurêka ! ARCHIMEDE. Syracuse còn là tên của chuổi số toán học bất biến, mà kết quả sau cùng của phép tính cho ra ba con số thường là 4, 2, 1. Thỉnh thoảng ra 3 số khác nhưng cũng bất biến tương tự như vậy (Lấy bất cứ con số nào, nếu chẳn thì đem chia hai, nếu lẻ thì đem nhơn cho 3 rồi cộng thêm 1, xong viết kết quả kế bên. Từ kết quả đó, cứ tiếp tục theo qui tắc như vậy cuối cùng sẽ thành bất biến 4, 2, 1). Xa kia, về phía Napoli, vào năm 79, núi lửa Vésuve dưới triều đại Titus đã chôn vùi thành phố Heculanum, Pompei dưới bao lớp đá tro bụi. Napoli, quê hương của những bản tình ca, giọng nhạc bất hủ được phổ biến bắng nhiều thứ tiếng, Trở về mái nhà xưa, O sole moi, Serenata...
A, tới đây tui phải mở dấu ngoặc để nói cho không ít quí vị sẽ ngạc nhiên chơi: Tui ghé Napoli cả hơn chục lần và xưa nay rất thích nhạc Napolitaine. Lời nhạc mà quí vị nghe Luciano Pavarotti hát đó không phải tiếng Ý mà là ngôn ngử địa phương (Patois). Người Ý nghe nhạc nhưng không nói được! Có lời nhạc của bài này bằng tiếng... Ý nửa hihihi. Tui quen một ca sỉ chánh gốc napolitain và có nhờ anh ta dạy cách hát, nén hơi loại nhạc này. Anh rất vui tánh, nói tui phát âm sao giống Pavarotti quá, chứ không phải như Caruso. Tui tưởng anh chọc quê, anh nói không phải, Pavarotti không phải chính gốc là dân Napolitain, nên phát âm không chuẩn. Giọng Ténor tuyệt vời thiệt nhưng để cho người ngoài nghe thôi. Dân napolitain phải ráng hiểu. Cũng như hồi xưa, gánh hát Kim Chung ca vọng cổ, xuống xề vậy mà: Chời đất ơi cái nổi đọan... chường!
Đi tàu, ghé Napoli phải biết hát bài Santa Lucia, bà thánh phù hộ cho dân đi biển: Sul mare luccia, l’astro d’argento. Placida è l’onda. Bài hát này được diển tã bằng rất nhiều ngôn ngử khác nhau. Có lần, tui vào quán nhạc,ngay bên ngoài cảng, nghe những thủy thủ hát bài này bằng ngôn ngử xứ họ. Một chàng Nga sô lên hát với tất cả niềm tin, giọng hát cao vút như ca sỉ thứ thiệt Thiên hạ vổ tay quá xá.
Lịch sử bản Torna a Surriento mà nhạc sỉ Phạm Duy lấy giọng nhạc để phổ lời VN thành Trở Về Mái Nhà Xưa cũng lạ lùng! Tác giả Decurtis vốn là bà con của một chủ khách sạn trong vùng Surriento lúc đó còn hoang vắng lắm (1902). Một hôm, có vị Thủ Tướng đương thời về đây nghỉ hè tại khách sạn này. Viên Thị trưởng là bạn của chủ khách sạn muốn tìm cách nhờ Thủ tướng giúp đở để phát triển khu vực, bèn nói nhỏ với ông chủ, bà con của Decurtis làm sao nhờ anh ta viết giùm cho bài nhạc ca tụng vẻ đẹp của Surriento. Bài hát ra đời trong hoàn cảnh đó. Lời nhạc thật sự: Vide’o mare quant’è bello, Spira tantu sentimento (Hãy nhìn xem, ồ, biển đẹp làm sao, nó lôi cuốn tất cả tình cảm trong lòng người...). Đón mò thôi, có thể Ông Phạm Duy lấy ý từ lời tiếng Anh Come back to Sorrento nên thành Trở về mái nhà xưa: Về đây nghe tiếng hú hồn mê hoang, về đây lắng trầm khúc nhạc truy hoan. Về đây nhé, cấm xong chiếc thuyền hồn... Ôi! Lời VN của nhạc sỉ P. Duy trên cả tuyệt vời. Cũng như bài Célèbre valse của Brahms vốn chỉ có nhạc thôi, Nhờ nhạc sỉ P.D viết lời và Lệ Thu diễn tả: Trong chiều dần im hơi, người ngồi thương nhớ bao ngày vui... Tội nghiệp thằng nhà quê như tôi! Vậy mà ngày xưa cứ tưởng... Thôi, xin đóng dấu ngoặc lại, nếu không, tui nói lung tung, dám nhảy qua tới Bài Lời Hát Khiêng Cây trong cải tạo: Bác Đang Hành... Chúng Cháu Mệt Ghê... Năm xưa tao gọi tụi bây không nghe lời... hihihi
Đảo Santorini ở biển Egée ngày xưa là một núi lửa. Năm 1490 trước T.L, bộc phát dử dội. Những ngọn sóng thần đập vào đảo Crète còn để lại dấu vết cho đến ngày nay. Mổi lần đi qua đây, CDT thường cho tàu chạy quanh đảo một vòng để ngắm cảnh. Các mỏm đá đủ sắc màu, chổ đỏ, chổ trắng, chổ như cẩm thạch thật lạ lùng! Triết gia Hi Lạp Platon, thế kỷ thứ tư trước T. L bàn tới và cho rằng có sự liên hệ với nền văn minh Atlantide.
Cảng Izmir, Istanbul đẹp lắm. Vùng biển Egée là nơi tranh chấp giửa Hi Lạp và Thổ nhỉ Kỳ. Vào thời buổi đó, (1984) tới Izmir phải thông báo, trả lời bắng chớp đèn tín hiệu Morse vì lý do quốc phòng., Không được quyền gọi VHF! Vụ này trên thế giới, chỉ còn lại trong nhà binh chứ dân sự đâu có xài. CDT thấy tui chớp đèn trã lời ngon lành mà không thèm đánh thức sỉ quan Radio, ngạc nhiên hết sức. Chuyện nhỏ thôi, bên mình đêm nào mà không đánh đèn tích ta với H.Q hay Tuần duyên!
Chất hàng xong, chạy qua Alexandrie, cảng lớn của Ai Cập, nơi có ngọn hải đăng, một trong 7 kỳ quan của thế giới. Tàu phải neo 24 giờ chờ bến. Rảnh rang, tui lên bờ, đi thăm thành phố.
Từ trong bến tàu, đã thấy bài bán Papyrus, một lọai giấy viết phát minh từ đời Ramsès (1250 trước TL. Tui được họ giả thích, loại giấy này làm từ cây cỏ, mọc rất nhiều dọc theo bờ sông Nil.Người ta lột vỏ cọng cây, lấy phẩn mềm rồi cắt theo chiều dài từng lát mỏng, xếp thành 2 lớp chồng lên nhau thành tấm giấy. Xong thấm nước rồi lấy đá đập cho nó dính với nhau. Khổ giấy tùy theo mình muốn.
Tui gặp một đám tang. Có 6 người khiêng quan tài. Họ cố chạy theo một người đàn bà, khóc kể lu bù, băng từ lề đường này qua lề đường kia. Bà phân trần với mọi người trên đường. Ai nấy cũng tỏ vẻ thông cảm nổi đau của bà. Phía sau quan tài là thân quyến cũng chạy theo. Nghĩ lại xứ mình, khiêng quan tài phải nhẹ nhàng không được chao đổ ly rượu, còn ở đây...

Nho xứ Ai Cập thật ngon, trái lớn, màu ngà, hơi vuông chứ không tròn như nho tây. Bận về, có ghé Port Saïd, trên tàu mua rất nhiều, đem về tặng bà con bên Pháp. Nghĩ lại tức cười, hồi xưa, nói bom nho là phải nói... bên Tây! Bây giờ, thấy Tây đi mua nho mang về... Pháp!
Ai Cập về đêm, hàng triệu ngôi sao lấp lánh, chen chút nhau trên bầu trời. Rời Alexandrie qua neo gần cửa con kinh Suez chờ hoa tiêu. Kinh Suez dài 180 km, tiếp nhận được các tàu có lườn sâu 20 m. Không có ụ như bên Panama vì nước con kinh lưu thông giửa Địa trung hải và Hồng Hải. Sắp qua đoạn kinh hẹp, phải neo lại chờ đoàn tàu đi ngược lại. Đại lý cho biết đậu lại đây 24 giờ. Thuyền trưởng cho phép đi viếng Kim tự tháp do đại lý tổ chức trong khi chờ đợi.
Hồi nhỏ, tui có cởi bò trong quê, nhà của thằng bạn. Lớn lên, về SG đâu có dịp nữa. Giờ đây, qua xứ Ai cập, tui cởi... lạc đà cho mướn trên đường đi Kim tự tháp. Chỉ đi chừng 200 m thôi. Cởi cho biết chứ lại gần đã nghe mùi nồng nặc, hôi rình. Coi truyền hình thấy dể ợt: nó quỳ xuống, mình leo lên xong, nó đúng dậy đi. Coi vậy mà không phải vậy! Khi nó đứng lên, thằng bạn tui té cái ạch xuống đất. Nó không dám leo lên nữa mà chạy lúp súp theo sau. Lúc lạc đà bước đi, mình ngồi trên lưng vừa cao mà lắc lư không khoái như cởi bò.
Đi vào bên trong kim tự tháp thì đã có nhiều đoàn du lịch khác. Tôi mãi mê quan sát, tự nhiên nghe lạnh sau lưng. Quay lại thì không còn ai, thiên hạ đi trước hết rồi. Tôi lật đật chạy theo, cảm giác rờn rợn lạ lùng...
Khu vực Hồng hải có ngọn gió Khamsin. Tiếng Á rập có nghiã là 50. Nó mang cát và sức nóng sa mạc thổi tràn qua đây. Thời gian mổi khi gió lên là 50 ngày. Khi tàu vô Hồng hải tui mới biết tại sao có tên này: do khamsin nước biển lộn với cát sa mạc nên màu hơi giống màu nước phù sa sông cửu long. Vòm trời nhìn từ xa, gió cát sa mạc như sương mù đỏ. Cửa nẻo đóng kín mít mà cát vẩn chung vô... Mới tuần trước đây, còn bên Hoà lan, lạnh cóng xương 10 độ âm mà bây giờ nhiệt kế bên ngoài chỉ 48° Celcius! Cho nên, đi tàu có loại tiền thưởng cho cái vụ nóng lạnh này nữa!
Dưới sức nóng ghê người, mặt biển như bốc hơi, mù mù, không thấy chân trời. Không có định vị làm point gì hết, cứ nhắm ở giửa biển mà chạy. Chỉ vào sáng sớm và chiều tối, 2 lieutenant mới xách sextant ra đo, tính toán điều chỉnh lại hướng.
Tới eo biển Bab el Mandeb, tàu rời Hồng Hải đổ ra vịnh Eden, tiếng Á Rập có nghiã là Cửa Ngỏ Than Khóc, ngăn cách 2 nước cộng hòa Djibouti và Yémen, được coi như là một trong những eo biển có nhiều tàu qua lại nhứt trên thế giới.
Khi ghé Djibouti, tui gặp một lính lê dương Pháp gốc VN. Anh đưa cho xem vỏ chai rượu chác Bordeaux bị quẹo nghiêng một bên chừng 30°, ngay chổ giửa chai Mùa hè ở đây nóng khủng khiếp, Uống xong chai rượu, làm biếng đem bỏ thùng rác , vùi đại xuống cát dấu cho rồi. Mấy bửa sau, cần cái chai không, ra moi lên thì nó bị biến dạng như vậy Anh giữ chai này làm kỷ niệm.
Cập bến Abu Dhabi, liên bang Á rập, tất cả rượu phải bỏ vào kho nêm lại. Xứ sa mạc như vậy mà dọc đường trồng hoa dài dài. Cứ 100 m có một người trách nhiệm tưới đi tưới lại hoài. Đất thì nhập cảng từ bên ngoài. Nước ngọt thì có máy... lọc nước biển. Nhà cửa tối tân, các chuyên viên, kỷ sư khắp nơi tụ họp về đây làm việc do lương bổng rất hậu. Nhiều tiệm cà phê nhưng không có tiệm rượu.
Hàng trăm giàn khoang nguyên cả một vùng Zakum Field. Có cái dùng để bom nước vô. Túi dầu cho dầu nổi lên, có cái hút khí Méthane, dầu thô. Từ năm 1976, bắt đầu khai thác vùng này với chi phí 1 triệu đô la/ngày. Cuối năm 1981, tui có dịp trở lại đây vẫn chưa chảy giọt dầu nào. Tui hỏi thăm thì họ cho biết, giá dầu còn rẻ lắm, chưa muốn bán. Chỉ cần tối đa 1 năm khai thác là lấy lại vốn. Với dung lượng hàng ngày 800.000 thùng, ông chủ có...100 năm trước mặt, chưa kể đến túi thứ hai nằm sâu phía dưới! Ây da, tọa thực sơn băng, ngồi ăn mãi, non mòn, núi lở, mà chừng nào mới lở nổi đây!!!
Trên đường về, tàu ghé qua Sfax ở Tunisie. Lần đầu tiên mới thấy chà là tươi. Trái màu vàng, vừa chín tới, ăn dòn dòn chứ không như bên mình. Khi tàu ghé Oran, nước Algerie, tui được Đại lý mời ăn chiều ở tại nhà. Ăn bốc bằng tay! Coi vậy chứ không phải dể đâu. Tây phương kỵ, đưa dao lên miệng, liếm dao khi ăn. Vô tù cải tạo, học được cách ăn văn minh văn hóa, trở đầu đủa lại gấp thức ăn mặc dù không có cái gì để gấp hết. Bây giờ, qua xứ Á rập hoc cách ăn bốc. Người lịch sự phải ăn như vầy nè: có tô nước thơm để rửa 3 (ba) ngón tay phải, ngón cái, ngón trỏ và ngón giửa thôi chứ không phải thọc nguyên bàn tay đâu nha. Nhớ là 3 ngón bàn tay phải vì tay trái dùng để... hát phim ngắn, hay cái vụ nọ kia! Cấm xài lộn nghe chưa quí vị. Tui bị ông ta đùa vui khẻ tay, vì tui thuận tay trái nên nhớ rỏ lắm, mặc dù thiên hạ nói nó... hổng đau hihihi. Dùng ba ngón tay, nhúm món ăn lại, đưa lên gần miệng cách chừng hai ba phân. Lấy bàn tay trái gỏ vào cườm tay phải cho thức ăn chạy vào miệng chứ không được đụng ngón tay lên môi vì như vậy sẽ bất lịch sự như liếm dao vậy. Chưa hết, xong buổi cơm, thay vì xếp khăn ăn lại thì mình phải vo tròn trong tay, ném mạnh xuống bàn rồi... rồi sao? Rồi ráng Ợ một cái cho lớn và nói bửa nay ăn ngon miệng quá!!! Ối mẹ cha ơi, hồi nhỏ mà tui lở làm như vậy có nước ra khỏi bàn cơm, nhịn đói luôn, còn bây giờ thì, ... thi sao? thì Chủ nhà mừng rở, cám ơn rối rít khoe là chính tay Bà chủ nấu nướng. Nhớ cho kỷ phim này nghe quí vị. Yêu cầu đừng chiếu lộn rạp nha: rạp nào chiếu phim nấy, rạp tây, chiếu phim tây cấm chiếu phim Á rập khách bỏ về hết đó.
Tàu đến Rotterdam, đại lý đưa ra phi trường, tung cánh chim tìm về tổ ấm. Tui gặp lại được phân nửa kia, chiếc dép cùng số sau 5 tháng 11 ngày lưu lạc. Ba tháng nghỉ phép chớp nhoáng, Hãng điện thọai đến, thông báo vé phi cơ đã sẳn sàng, 3 ngày nữa lên đường. Bèn buồn!
Thôi, ...Anh về với em, rồi mai lại đi!
Nhơn