Wednesday, June 3, 2009

BIỂN VÀ EM
TRẦN VĂN BÉ
Cựu Thuyền Trưởng Phú Quốc

Qui nhơn ngày .. Tháng .. năm 19...
Em Nguyệt yêu quí.Tàu vừa cặp bến Qui nhơn sau bao nhiêu ngày sóng gió dồn dập, một hải trình đối với anh thật đầy gian lao khổ cực mà anh lần đầu tiên gặp phải.Như thường lệ, mỗi lần tàu cặp bến, anh cũng đều biên thư về thăm em, kể cho em nghe những câu chuyện lạ hay có những chuyện gì xảy ra sau bao ngày anh và em xa nhau, và để vơi đi thương nhớ như vậy, anh tin chắc rằng sẽ làm vơi đi lòng mong đợi tin anh. Từ lâu như em đã biết vì anh yêu nghề biển cũng như yêu em nên lúc nào anh cũng kể cho em nghe về những ngày trên biển cả mà anh tin rằng em rất thích.Em yêu, lần này anh chắc rằng sẽ khác hẳn hơn các lần trước vì là chuyến đầu tiên anh làm thuyền trưởng, trách nhiệm anh là lo cho con tàu được vẹn toàn, đi đến nơi về đến chốn.Em yêu, như em đã biết, sau khi học xong ở trừơng Hàng hải anh cảm thấy thích thú và hảnh diện đã tạo cho anh những điều căn bản của nghề nghiệp và đem lại cho anh một tương lai sau khi rời khỏi ghế nhà trường. Anh từ lâu đã có đam mê nghề ấy bằng biết bao nhiêu kỷ niệm ấu thơ.Anh đã được sinh ra từ một vùng hẻo lánh bao bọc bởi sông rạch và cây trái, cảnh trời trăng mây nước thích thấy những thú vui bơi xuồng trên sông rạch hay chơi đùa bơi lội trên các bè chuối hoặc lặn hụp cút bắt nhau dưới đám lục bình. Những cuộc chơi thú vị đã đưa anh chọn cái nghề Hàng hải này.Em à, anh vẫn không bao giờ quên ngày anh cầm trên tay sổ hàng hải chuyên nghiệp, với tờ giấy bổ nhiệm xuống tàu Nhựt Lệ thực tập học viên pont. Tàu Nhựt Lệ với trọng tải 1200 tấn đang đậu cầu Nguyễn Huệ bến Bạch Đằng, là một tàu hàng lớn nhất trong số bảy chiếc tàu mà anh hay kể cho em nghe, do Sở Hỏa Xa quản trị các tàu này mà giới thủy thủ các anh thường gọi là tàu bà vì tiền thân do bà Ngô Đình Nhu mua để kinh doanh, hiện chuyên chở hàng hóa từ Saigon đi các tỉnh miền Trung duyên hải và ngược lạiEm à, anh vừa vui mừng và hăng hái bước lên tàu Nhựt Lệ vừa hồi hộp, lo âu, vì anh không biết đời sống, cách thức làm việc sẽ ra sao, vì anh đang từ bỏ cuộc sống học trò để bước vào đời.Ban chỉ huy tàu Nhựt Lệ lúc đó như anh còn nhớ, trên hết là thuyền trưởng Tô Ngọc Tuấn mà tất cả nhân viên trên tàu thường gọi ông là Quan tàu. Thuyền phó là ông Nguyễn Văn Liêm, còn gọi là ông gòn (second capitain), sĩ quan phụ tá, anh Dương Quang Tâm còn gọi là ông dịch và anh đang thực tập gọi là Leo (Elève Officier).Ban máy, ông Lê Văn Gạo là Chef máy hay là Cơ khí trưởng, kế đó là ông Lê Văn Đựơc máy nhì (cơ khí phó) và anh Diệp Văn Hoàng máy ba, dưới máy cũng có Elève, anh nầy tên Nguyễn Tài Tuần ra trường cùng lúc với anh, anh nghĩ anh Nguyễn Tài Tuần cũng mang tâm trạng như anh.Theo như thủ tục, anh xuống tàu trước hết trình diện ông gòn, anh còn nhớ, trước khi lên tàu Nhựt Lệ, bạn bè đã nói: “Bé ơi, mầy xuống tàu Nhựt Lệ có ông gòn Liêm khó lắm, ổng hay lên cơn nổi cáu, không khéo mầy sẽ bị đì”. Anh cảm thấy mình kém may mắn và lo âu khi phải gặp ông gòn khó như vậy.Ông gòn Liêm dẫn anh và chỉ cho anh về những thủ tục cũng như những nhu cầu cần thiết trên tàu hằng ngày, kế đến anh được giới thiệu gặp anh dịch Tâm để làm việc sổ sách giấy tờ như dăng ký làm việc dưới tàu, anh dịch Tâm với giọng Bắc vui vẻ vì anh và anh Tâm đã quen nhau từ trước, khi còn học ở trường Hàng Hải, anh ấy là khóa đàn anh trước anh một năm. Anh Tâm nói nhỏ cho anh biết như là lời khuyên: “Bé toa ráng chịu đựng với ông gòn nhé, ông ấy tánh khó lắm”. Anh rất mang ơn anh Tâm vì đã lo lắng cho tương lai của anh.Khi gặp ông gòn Liêm thật là khác với điều anh tưởng, ông Liêm rắn chắc, lanh lẹ trán cao mắt sáng, nói chuyện trong trẻo ngắn gọn, ít thấy ông cười, nhưng không phải con người hiểm độc hay khó khăn như lời đồn, là con người thông minh hiểu biết và có tay nghề giỏi. Theo như thông lệ từ lâu, hằng ngày anh trực tiếp làm việc chung với ông gòn. Tất cả công việc trên tàu từ hàng hóa cho đến việc an toàn trên tàu. Điều đáng nói ba ngày làm việc chung với ông gòn nhưng anh chưa biết ông nào là thuyền trửơng, là quan tàu Tuấn? anh có nghe nói qua về ông Tuấn: là một người rất hiền hòa, điềm đạm, nghề nghiệp giỏi, cập tàu rất khéo léo, đặc biệt ông thường hay uống rựơu nhưng không thấy say lại thêm tài hội họa, theo nhận xét của anh về ông gòn và quan tàu Tuấn anh cảm thấy mừng thầm, và việc anh xuống tàu Nhựt Lệ đi thực tập là dịp may mắn cho anh trái với lời bạn bè nói là anh kém may mắn, nào là có ông gòn Liêm thông minh lai giỏi nghề, nào là có quan tàu Tuấn đầy kinh nghiệm biển cả. Với bao ngần ấy trong thời gian thực tập trên tàu Nhựt Lệ cùng sự chịu khó học hỏi nghề nghiệp của anh, hy vọng sau nầy anh sẽ hấp thụ một phần nào về nghề nghiệp của hai vị niên trưởng nói trên.Kế tiếp, sau một tuần lễ làm việc trên tàu, từ từ qua sự giới thiệu lẫn nhau, lần nầy anh được quen ông chef máy Gạo, kế đến là anh máy nhì Đựơc, ông này có dáng người vạm vỡ hay ở trần khi làm việc, lần đầu gặp máy nhì Đựơc, anh rất vui vẻ đối xử rất tử tế, anh gây cảm tình rất lẹ với anh Đựơc. Anh thường gọi anh là (em-Bé) còn máy ba Diêu Văn Hoàng, tướng người thon nhỏ, với bộ râu cá chốt coi rất hùng và có vẻ như một tay anh chị, tuy nhiên anh nói chuyện rất dịu dàng Anh Hoàng thường hay khuyên anh trong công việc giao tế hàng ngày cũng như sự ngọt dịu sẽ làm vui lòng tất cả mọi người. Hoàng hay giúp đỡ mọi người trong đó có anh.Riêng anh mọi ngày như một ngày đều theo chân ông gòn Liêm học từ việc tu bổ trên tàu như sơn phết cho đến việc bảo trì neo và dây nhợ cột tàu, tất cả mọi việc ông đều chỉ cho anh từng bước một. Theo anh nhận xét ông này không như lời đồn đãi trước khi anh xuống tàu, nhưng đôi khi ông hay nói thẳng, câu nói rất ngắn gọn, nếu anh hỏi nhiều có khi ông tỏ vẻ nóng tính và bực mình.Có một lần ông ấy nổi cáu lên vì anh theo hỏi ông ấy hoài về nghề nghiệp trong lúc tàu đang chuyển hàng. Anh còn nhớ mỗi ngày trước khi hết giờ làm việc, ông gòn Liêm đều kêu anh đọc Tirant d’eau, gọi là mực nước của tàu chìm xuống sau một ngày cất hàng. Sở dĩ anh đọc số này là để ông gòn tính mỗi ngày số hàng hóa được chuyển xuống tàu là bao nhiêu tấn. Sau vài ngày đọc có lẽ lần này anh đọc sai hay đọc không đúng như ý ông gòn tưởng, ông bỗng cáu lên và gọi anh vào phòng, anh hoang mang lo sợ lại càng lo sợ hơn khi nhớ lại cái nóng tính của ông gòn. Anh lo âu bước vào phòng ông gòn. Sau khi anh vào, ông với tay đóng cửa lai làm anh lo lắng thêm, anh tự an ủi! Chẳng lẽ vì đọc sai tirant d'eau mà ông gòn nóng đến nổi như vậy!Nhưng trái với anh tửơng ông gòn nói với anh thật là dịu dàng, làm anh lúc đó thơ ra một cách nhẹ nhỗm, ông lấy giấy và viết chỉ cho anh biết cách tính số hang hóa đã chuyển lên tàu mỗi ngày, tổng số là bao nhiêu bằng cách dọc tyrant d'eau. Cuối cùng ông gòn chỉ nói với anh một câu ngắn gọn: Dưới tàu có nhiều việc cần phải làm mà sau này anh cần phải biết và học hỏi thêm nhiều..Em yêu quí, anh hồi tửơng hôm trước lúc sáu giờ chiều, taù đang chạy anh đứng trên đài chỉ huy (passerelle) nhìn lên bầu trời, thấy cả một vòm mây đen nặng nề bao phủ gió đang thổi mạnh đôi khi rít lên tường cơn nghe vang dội từ xa đưa tới, đồng thời, kèm theo với từng đợt sóng vỗ ầm ầm vào mũi và mạn tàu, làm cho anh cũng cảm thấy lạnh, cái lạnh ngoài trời và cái lạnh trong long nhớ em khi tàu rời bến...Với nhưng lượn sóng tanguage, tàu lắc lư theo từng đợt sóng mũi tàu nhất lên và dội xuống hoà với những bọt nước biển màu xanh đậmvà bạc đầu, anh với ống dòm nhìn vào phía bờ đang cố gắng tìm đối vật để định vị trí tàu. Trời chưa tối mà như tắt hẳn, toàn cả một màu xám đầy mây bao phủ. May qúa, anh đang tìm được đỉnh nuí cao ngay mũi Varella, sau khi định vị trí của tàu với sự phỏng định là tàu anh đang ngang mũi Varella tức là khoảng nữa đường từ Nha-trang đến Qui-nhơn.Càng về đêm, tàu càng lắc lư vì sóng gió càng to, tàu đang chạy ngược song, ngược gío lại càng chạy chậm hơn. Anh đang làm việc bên phòng hải đồ với sự chịu đựng từng cơn song trong mùa biển động như thường lệ, bỗng anh sĩ quan vô tuyến Lê Bá Hiền-Em bước vào trao cho anh xem bảng meteo mới nhất mà anh ấy vừa nhận được, bình thường mỗi đêm anh Hiền-Em chỉ để bang meteo này trên bàn và anh chỉ xem qua rồi là xong. Đêm nay anh lại đưa thẳng cho anh xem và nói quan tàu đọc kỷ đi rồi sẽ biết. Anh thầm nghỉ bảng meteo đêm nay chắc có điều khác lạ. Sau khi đọc xong, anh được biết đêm nay gío đông bắc sẽ thổi mạnh và tình trạng biển động sẽ từ cấp 3 cấp 4 như hiện tại sẽ tang đến cấp 6 và 7. Anh đứng lặng yên nhưng không khỏi lộ vẻ lo lắng vì tình trạng biển qúa động, lúc trước anh cũng trên tàu nhưng chưa phải là thuyền trửơng, anh chỉ biết an phận nhưng anh vẫn còn nhớ với tình trạng biển động như thế này, đa số tàu nào trên biển cũng đều lo kiếm chổ ẩn náu cho dến khi biển dịu lại mới tiếp tục cuộc hải hành.Em yêu, bây giờ anh là thuyền trửơng, với tàu đang chuyên chơ 600 tấn hang trên vùng biển động như thế này, anh phải có sự quyết định làm sao đây? Anh nghĩ thầm chuyến tàu đầu tiên do anh làm thuyền trửơng sao nguy hiểm qúa, trong phòng lái anh đướng nhìn ra ngoài mặt kiếng dày đặc vì hạt mưa đang nặng hột, anh nhìn thấy bên ngoài mũi tàu và xa xa từng lượn song cao dập dồn từng đợt nổi lên đập vào mạng tàu nghe chat chúa, rợn người, va anh có cảm tửơng như con tàu bị đẩy lùi lại. Anh Hiền-Em là người đi biển lâu hơn anh và rất là dày dặn trong mọi vấn đề, anh rất hiền và nói chuyện thật vui vẻ, lúc nào cũng cười lớn tiếng và rất lịch sự với mọi người, anh thường khi cũng hay nói giỡi với anh ấy, nhưng đêm nay anh và anh ấy lặng yên chẳng nói lời gì với nhau.Em yêu qúi, chắc chắn là anh phải tính toán và quyết định cho chuyến tàu này, nhất là đêm nay anh phải sang suốt trong mọi hành động và quyết định, vừa suy nghĩ, anh liền cho người mời cơ khí trửơng và thuyền phó đến gặp anh để cùng bàn luận và quyết định. Như em đã biết bộ tham mưu tàu Phú Quốc lúc này là: Trên pont thuyền trửơng thì có anh, thuyền phó là anh Vân-Đạc, sĩ quan phụ tá là Nguyễn Văn Hai một sỉ quan Hải quân biệt phái. Dưới máy có anh Nguyễn Gia-Thọ làm cơ khí trửơng, máy nhì có anh Nguyễn Văn-Tân và cơ khí ba là anh Hùynh Văn Lai và sĩ quan vô tuyến là Lê Bá Hiếu-Em, điều đặc biệt là anh và các anh Đạc, Thọ và Hùynh Văn Lai là bạn đồng khoá Hàng hải tại trung tâm kỷ thuật Phú thọ. Taù vẫn còn lắc lư, chồng chễnh với những lườn sóng bạc đầu khổng lồ đưa đẩy, anh vẫn còn lo lắng và hoang mang trước sự hiện diện của thuyền phó, anh cơ khí trửơng và anh sĩ quan vô tuyến sau khi tham khảo ý kiến và bàn luận, anh đưa ra hai ý kiến.Thứ nhất, là quay tàu trơ lại Nha trang để tìm chổ ẩn núp đến khi tình trạng biển dịu lại mới tiếp tục đi. Thứ hai, là tiếp tục đi.Cuối cùng anh quyết định đi, và càng về đêm sóng càng to và gió càng thổi mạnh hơn, thứ gió muà đông bắc đã lạnh laị càng lạnh thêm và cái lạnh của mùa biển động đãlàm cho nghười đi biển càng lo âu và gìa đi trước tuổi, mặc dù với chiếc aó lạnh anh đang mặc nó vẫn không giử dược độ ấm. Tay anh lúc nào cũng cầm ống dòm nhìn ra ngoài quan sát, anh chỉ thấy một vòm đen đầy mây bao phủ, mưa nặng hột hoà với tiếng song vỗ vaò mạn tàu, tung bay trắng xoá bay vào cửa kính phòng lái nghe lộp bộp tửơng chừng như các cửa kính đang bị vỡ tan.Em yêu quí, đêm nay chắc anh phải ơ lại phòng lái để kiệp thời đáp ứng việc gì có thể xảy ra. Đến nửa đêm, thuyền phóvừa bàn giao phiên cho sĩ quan phụ tá, lúc này anh cảm thấy mệt và đừ người, anh ngồi xuống trên một ghế dài trong phòng hải đồ, anh đang dựa người vì qúa mệt mỏi, anh đã ngủ thiếp đi và mê man lúc nào không hay biết cho đến lúc tỉnh dậy, taù vẫn còn chạy bình thường và gió vẫn còn thổi mạnh. Dứng choàng dậy và quan sát về phía xa, từng lượn song trắng to bằng con tàu, từ phía trước vỗ mạnh vào mũi tàu làm cho mũi tàu như bị diềm xuống nước, lái tàu lại nổi lên làm chân vịt như quay trên không và tàu bị rung ồ lên như đang vẫy vùng với những cơn song bạc đầu đua nhau đập vào tàu.Trời đang mờ sang, cái sang vẫn còn mờ ảo trong đêm tối không đủ để cho anh nhìn rõ dối vật xa, anh dung ống dòm nhìn về phía sau lái anh lại thấy mập mờ mũi Varella mà lúc chiều hôm qua anh đã đi ngang, như vậy anh đã biết là đêm qua với tốc độ bình thường như thế này, tàu vẫn không đi xa mấy vì sức cản của sóng và gió. Dù vẫn còn thấy qua ống dòm nhưng rất mờ, vẫn cách xa hang mấy mươi hải lý, anh thấy cũng đỡ lo hơn và anh vẫn cố gắng tiếp tục đi như đêm rồi. Anh nhìn vào bờ và nhìn ra phía trước, không thấy một cái gì ngoài sự mờ ảo và lượn song bạc đầu, càng lúc anh càng nhìn xa và thấy rõ hơn vì trời bắt đầu sáng anh thủy thủ gõ cưả phòng lái mang cho anh một ly cafê nóng thật là đúng lúc vì anh đang cần sự sửơi ấm trong lúc này và anh cũng đang cần một sự tỉnh táo để bình tỉnh hơn trong mọi việc vào buổi sáng.Con tàu sau một đêm biển động, giờ này anh mới nhận rõ thật là tang thương cho nó, hết đợt sóng này đến đợt sóng khác như đua nhau tắm con taù bang những cụm nước biển lạnh buốt, anh tửơng tượng con tàu hiện giống như con khủng long đang lao đầu vào sóng nước, hai bên mạng tàu nước ào ra và tràn trề như hai dòng lệ khổng lồ đang cầu khẩn với thần linh cho bớt sự đau khổ sau đêm ngày chịu đựng. Trời càng về trưa song gío càng mạnh hơn, tàu vẫn lắc lư đều và con khủng long nầy vẫn còn đau khổ chui đầu vào những lượn sóng khổng lồ. Anh thấy cảnh tựơng sao qúa hải hung và lo sợ, lúc đó có một thuỷ thủ trẻ đang lái taù, con người anh ấy có vẻ mạnh dạng nhưng với vẻ mặt xanh xao sau một đêm mệt nhọc, anh đứng kế bên và nói nhỏ: quan tàu em vừa cưới vợ mới có ba tháng, quan tàu ráng cứu con tàu và cứu em để lo cho vợ con sau này, vừa nghe anh ấy nói xong, anh như đứng tim, đứng lặng người và an ủi anh thủy thủ và cũng như tự an ủi: "anh mới cưới vợ, còn tôi sắp cưới vợ hiện tại vợ sắp cưới của tôi đang ơ Saìgòn và chờ đợi ngày tôi về bến để bàn việc hôn nhân, anh yên chí, tôi cưú tôi, cứu anh và tất cả thủy thủ đoàn trên tàu này, tôi đang cố gắng chịu đựng và cầu nguyện cho chúng ta được bình an".Em thân yêu, anh đang nói chuyện với anh thủy thủ bỗng bên ngoài tàu, có một thủy thủ khác đang quan sát và hối hả vào báo cáo với anh trong sự lo lắng: Quan tàu có một dẫy núi đen mờ trước mặtcó lẽ mình đang vào bờ, anh vội chạy ra ngoài ngay chổ anh ấy đang đứng và dung ống dòm để quan sát thì phía xa là một dãy núi dài đưa ra biển, nhưng vẫn còn qúa mờ mãi một lúc sau anh mới nhận thấy rõ rang đó là dãy núi của mũi Qui nhơn. Anh mừng qúa vì đã thấy rõ được đối vật, anh liền nói với anh thủy thủ hãy rang lên đi chúng ta sẽ đến Qui nhơn trước khi mặt trời lặng vì lúc này mới chỉ hai giờ chiều. Sau bao nhiêu ngày chịu đựng giờ này anh mới nghĩ laị lời chỉ dẫn của quan taù Tuấn thật chí lý. Bất cứ việc gì, nhất là nghề đi biển phải cần đến sự cẩn thận và chịu đựng. Anh lại nghĩ đến cách quay tàu lúc biển động, phải rất là cẩn thận, nếu lấy tay lái qúa gấp tàu có thể bi nguy hiểm với sức trọng tải nặng. Anh đang suy nghĩ lại những điều anh đã học từ những người đi trước mà anh phải ứng dụng khi tàu bắt đầu vào vịnh Qui nhơn.Em yêu qúi, còn khoảng một giờ nữa thôi là anh bắt đầu quẹo vào Qui nhơn, hiện giờ trước mặt anh là một dãy núi dài đang nhô ra biển, tạo thành một vệt đá màu xám sậm nằm dài trên mặt biển. Anh nghĩ thầm trong niềm hân hoan rằng chính dãy núi nầy đã thông báo cho mình biết đó là cửa vào Qui-nhơn. Anh cố gắng quan sát một lần nữa và lấy phỏng định vị trí để chuẩn bị vào cửa vịnh. Lúc này anh vẫn nhớ lời dặn của quan tàu Tuấn là phải lấy tay lái từ từ khi đổi hướng tàu. Anh rất bình tỉnh, liền ra lịnh cho thủy thủ đang lái: trái 5 mũi tàu bắt đầu hướng qua trái một cách chậm chạp, tàu bắt đầu đổi độ lắc, đang tanguage đổi thành roulis tức là lắc ngang. Với độ lắc kiểu này làm tàu nghiên qua trái rồi sang qua phải, anh cho tiếp tục: tay lái số zero và lái thẳng anh thủy thủ lập lại lệnh và thông báo, tàu đang chạy hướng 265 độ. Sau khi canh hướng chạy thẳng của tau, anh lai cho lái thẳng và giử hướng 270 độ. Với hướng này anh cho tàu chạy thẳng vào bờ Qui-nhơn, con tàu bị lắc ngang và cảm thấy khó chịu, tuy nhiên anh hợp với lắc này hơn là loại tanguage.Gió vẫn còn thổi mạnh, tàu vẫn còn như một con lật đật, bầu trời vẫn còn mây bao phủ, anh cố gắng nhìn ra phía trước để tìm hòn Poulo Gambir và anh thấy một dãi màu xám đậm bên mạn trái và đây chính là hòn Poulo Gambir trên dỉnh có một ngọn haỉ đăng loại nhỏ, bình thường ánh sáng rất mờ và độ chớp tắt trong vòng 15 giây, mỗi hải đăng đều có một đặc tính riêng, về đêm người đi biển rất cần đến nó. Khi đã biết chính xác mục tiêu anh đang tìm để vào hải cảng Qui-nhơn, càng vào gần bờ biển như diệu lại và tàu chạy có vẻ nhanh hơn anh điều chỉnh hướng tàu và đang trên dường tiến vào bến Qui-nhơn, anh Lê Bá Hiền-Em đã liên lạc trên bờ và anh đã được thông báo là có cầu để cập. Như vậy là anh sẽ vào cập cầu mà không cần phải bỏ neo chờ bến.Em yêu, có một lần tại bến Qui-nhơn anh còn nhớ quan tàu Tuấn cập tàu Nhựt Lệ cũng tại nơi đây anh nhận thấy rất là khó khan và nguy hiểmvì gío thổi nhiều mà cầu lại nhỏ. Anh nhìn vào cầu tàu mà anh sắp cập vàọ Mặc dầu trời đang gío lạnh và mưa rơi lấm tấm, anh thông báo sàn mũi chuẩn bị bỏ neo để cập cầu, anh bỏ neo là vì dung hệ thống neo để chịu lại sức gío cập cầu và anh sẽ cần đến neo để dể dàng khi tàu rời bến.Anh ra lịnh cho các sĩ quan trửơng sàn cũng như các thủy thủ biết là anh sẽ cập tàu bên mặt và bỏ neo bên trái, chuẩn bị các trái độn bên cho phải vì gío thổi mạnh vào cầu tàu. Lúc này là lúc cần đến sự bình tỉnh và nghĩ đến cách cập tàu theo kiểu quan tàu Tuấn đã chỉ dẫn cho anh. Tàu đã ngừng máy mà vẫn còn lừ đừ vào gần cầu, lúc đó anh ra lịnh bỏ neo và chịu lại, mũi tàu từ từ được giữ chặc và thân tàu từ từ quay nhẹ vào cầu vì ảnh hửơng của neo, gío và nước. Lúc đó đứng trên phòng lái trông xuống rất là đẹp mắt, con tàu như một khối sắt nặng nề từ từ áp sát vào cầu, anh ra lịnh xả neo từ từ và cho đến khi mũi tàu sát vào cầu thì giữ chặt neo và khóa lại.Sau khi tàu đã đến bến an toàn, từ trên phòng lái bước xuống anh cảm thấy nhẹ nhổm và thoải mái, anh vổ vai anh thủy thủ đêm rồi và nói - Anh yên chí, giờ này anh sẽ tha hồ nhớ đến vợ anh, còn tôi chắc chắn sẽ viết thư cho vợ sắp cưới của tôi - Mọi người trên tàu đều có vẻ vui mừng như vừa thoát qua một cơn tai nạn.Em yêu quí, sau mấy ngày dài cực khổ và một đêm yên nghỉ an lành, sáng nay bên tách cà-phê nóng bốc mùi thơm diệu ngọt đưa tầm măt về chân trời xa thẳm mà hồi tưởng về những ngày đã qua, sau đó anh bước lên cầu tàu để lấy hơi đất và tản bộ một lúc, tuy nhiên vừa cất những bước đầu tiên trên mặt đất anh cảm thấy như người say rượu nên anh trở lại phòng ngồi nghỉ. - dưới tàu có say sóng, trên bờ có say dất và cuộc đời thì lại say tình. Thực vậy anh hết say song, hết say đất giờ lại đến lúc say tình vì anh đang nghỉ đến em ao ước sao mình được mãi mãi bên nhau.Em yêu qúi, như anh đã nói với em là anh sẽ cưới em làm vợ sau khi anh được làm thuyền trửơng, một ước mơ mà anh nghỉ anh có thể toại nguyện và có khả năng để lo nhau cho cuộc đờị Nhưng em thường nói với anh. Nhưng em thường nói với anh là em vẫn còn thắc mắc với anh về những sự chia tay khi ra biển, em hay nói là nghề đi biển sao qúa bạc bẽo và không thực tình trong sự yêu thương, em nói - CHAQUE PORT CHAQUE FEMME - mà em đã vội kết luận là anh không thực tình yêu em. Đi biển là mình đã chấp nhận sự hy sinh qúa nhiều về bất cứ vấn đề gì trong cuộc sống cũng như chịu đựng và chờ đợi với sự nhẫn nại. Anh đang chờ đợi sự đáp ứng tình yêu của hai đứa mình dù anh nghỉ là không chắc chắn lắm là sẽ được nhưng vẫn kiên nhẫn chờ. Em có biết trong cuốn Mobydick, thuyền trửơng AHAB dù còn một chân mà vẫn đeo duổi sống với nghề săn cá voi, và nhân vật chính trong cuốn VIEILLE HOMME ET LA MER ông này khi gìa yếu vẫn còn yêu biển. Vậy khi em đọc thư này có lẽ cũng là lúc tàu của anh sắp về đến Saìgòn, anh tin rằng sẽ gặp em với nụ vười thân yêu mà anh sẽ tin rằng chúng ta cùng ôn nhau những kỷ niệm mà từ lâu anh và em tạo nên và làm nền tảng cho sự hạnh phúc sau này.Em yêu qúi, ơ đời có nhiều việc mình không tính mà lại được, trái lại cũng có nhiều chuyện mình toan tính mà lại không thành. Anh thích sống thực tế hơn là tạo cho mình những sự viễn vong rồi đau khổ và vứt bỏ, cũng như hiện tại anh đang làm thuyền trửơng, thực ra là sự tha thiết yêu biển cả chứ anh chẳng biết gì nhiều, trong đó có sự kinh nghiệm về thuyền trửơng, đó là những kết qủa trong sự cố gắng học nghề do đàn anh chỉ bảo và dẫn dắt. Chuyến đi này là chuyến đi đầu tiên của anh và anh nghỉ sẽ còn nhiều những chuyến đi nữa trong cuộc đời đi biển của anh.Người ta thường nói - Kiến bò miệng đĩa ngỡ là đường xa, cá lội ao hồ ngỡ là biển rộng, còn anh trên con tàu với biển rộng bao la đường đi còn dài biết đâu mà đoán trước được phải không em! Với dòng thư này anh mong em cố gắng đọc và suy nghỉ nhiều hơn, anh mong em sẽ làm thỏa lòng mong đợi của anh mà bấy lâu nay anh hằng mong ước. Anh biết lúc nào em cũng suy nghỉ kỷ trong mọi vấn đề nhưng cũng có khi muốn buông trôi cho số mệnh. Tuy nhiên trong cuộc tình thấm thiết của chúng ta anh không bao giờ muốn em buông xuôi cho định mệnh.Em yêu qúi, thư vừa mới viết xong cũng là lúc anh nghe giọng hát thánh thót và trong trẻo của Hoàng Oanh trong baì nhạc "Thương hòai ngàn năm" thật đúng với tâm trạng anh lúc này vì: Ngàn năm anh chỉ thương minh em và lời nhạc đó chính là sự mong đợi của anh khi tàu về cập bến.Cùng các bạn Hàng hải thân mến,Thưa các niên trửơng, các bạn đồng khóa cùng các bạn hang hải. Đây là một câu chuyện có thật trong đời tôi. Khi lần đầu tiên tôi làm thuyền trửơng, tôi không thêm bớt một chi tiết nàọ Vì không quen viết văn nên câu văn nhiều lúc không mạch lạc mong các bạn bỏ qua và thông cảm. Người tình tên Nguyệt trong thư này là người vợ yêu qúi của tôi hiện giờ. Chúng tôi đang an hửơng tuổi vàng trong những ngày còn lại của cuộc đời ơ tiểu bang cao nguyên từng xanh (Washington state) miền tây Hoa kỳ.Mong gặp lại các bạn và ầu chúc các bạn được những ngày an vui trong cuộc đời.
Thân chào các bạn
Trần Văn Bé

Labels:

0 Comments:

Post a Comment

Subscribe to Post Comments [Atom]

<< Home