Sunday, July 12, 2009

CHIẾC TÀU CUỐI CÙNG


CHIẾC TÀU CUỐI CÙNG
Nguyễn Hiếu Liêm

một lần xa bến bao nhiêu là buồn

Mến tặng Cô Trần thành Mỹ G/s Pháp vănTrường Trung Học Gò Công

Hôm nay em kể tiếp cho cô những chuyến đi trên chiếc tàu cuối cùng trong cuộc đời đi biển của em và cũng kết thúc loạt bài về kỹ niệm nghề hàng hải; đó là chiếc Pascal, tàu chở gaz chính yếu như gaz ammoniaque hóa lỏng. Tàu đã ghé các hải cảng sau đây : Le Havre, New Orleans, Corpus Christi, Baton Rouge, Houston (USA), và trong môt chuyến, tàu đã đi vòng quanh thế giới, tàu đã vượt Đại tây dương, Thái bình dương và Ấn độ dương và đây cũng là lần duy nhất trong đời đi biển em được đi vòng quanh thế giới. Em đi trên chiếc tàu này nhiều lần, thường chỉ chạy qua lại các hải cảng của Mỹ trên vịnh Mể tây Cơ như em đã kể trên rồi trở về Pháp nhưng trong một chuyến, từ Mỹ, tàu tiếp tục hải trình vượt kinh Panama, xuyên Thái bình dương ghé bến Geelong gần Melbourne, Singapore, Surabayạ (Indonesie), Kandla (Inde, hải cảng nhỏ nầy nằm sát biên giới Pakistan, nằm ở biển Oman, Bắc Ấn Độ Dương ), sau đó thủy thủ rời tàu lên bờ ở hôtel vài ngày rồi lấy máy bay đi Bombay, ở đó vài ngày chờ máy bay đi về Pháp. Đi tàu chở gaz thì lảnh được nhiều tiền hơn vì chở chất liệu nguy hiểm. Thủy thủ đoàn rời tàu vào buổi tối trên xe car chạy từ bến tàu vào thành phố xuyên qua những cánh đồng lúa dưới ánh trăng mờ nhạt trên con đường hẹp vắng tanh không một bóng người ; đời sống ở đây tuy nghèo nhưng thanh bình làm em nhớ đến cảnh đồng quê êm đềm ở Viêt Nam lúc chiến tranh chưa bùng nổ. Người Ấn lại an phận họ cho rằng nếu ho bị nghèo khổ trong cuộc sống hiện tại vì kiếp trước họ đã gây nghiệp nên họ chấp nhận trả trong kiếp nầy, nếu không thì kiếp sau họ phải tiếp tục trả ; vì lẽ đó mà chủ nghĩa cộng sản không phát triển được ở Ấn mặc dù ở Ấn người cùng khổ chiếm đa số.
Ở Kandla, người dân ăn trầu nhiều lắm giống như người hút thuốc, đường phố chổ nào cũng có bán trầu, họ cũng trét vôi lên lá trầu như người Việt Nam nhưng người Ấn có rắc thêm những ‘ gia vị ‘ gồm những hột nhỏ đầy máu sắc xanh đỏ trên lá trầu mà em cũng không biết là gì, giống như mình rắc muối tiêu trên đồ ăn ; sau đó họ xếp lá trầu thành hình vuông chừng 3cm và bỏ vào miệng nhai. Thấy em tò mò đứng nhìn, họ có mời em ăn thử, nhưng em thành thật từ chối và cảm ơn họ. Một điểm đặc biệt khác nửa là thành phố này lại có quá nhiều ăn mày ; khi thủy thủ đoàn lên bờ vá tạm trú trong hôtel, tất cả ăn mày hay tin dến bao vây, chầu chực trước cửa hôtel nên khi đi ra ngoài chơi phải đi thành từ nhóm vì lúc nào cũng có một đám ăn mày lẽo đẽo theo sau, đi đâu họ theo đến đấy thiệt là bực mình !
Trong các email trước em có nhắc đến chuyện em gặp một người tị nạn Việt Nam trong bar trên bải biển Coppacabana, tình cờ em lục lọi trong mớ giấy tờ củ tìm được miếng giấy ghi địa chỉ của người đó tên Đặng văn Thuận, gốc ở Phan Thiết, không biêt bây giờ lưu lạc nơi đâu . Biển Nam Hải mùa gió Đông Bắc bắt đầu khoảng tháng Mười, biển động mạnh, nhiêu khi bị bảo và sương mù . Ờ Đà Nẳng vào thời điểm đó, thành phố thường hay bị mưa dầm suốt nhiều ngày, nhiều khi bị ảnh hưởng những cơn bảo gây giông gió và thời tiết lành lạnh, tàu ghé bến phải đóng hầm lại vì hàng hóa không bốc dở được ; dân đi tàu chỉ còn cách tụ tập trong mấy quán café nghe nhạc suốt ngày và ăn bún bò, ngoài ra thì chẳng có gì để giải trí cho qua giờ.
Dân đi tàu ghé bến Đà Nẳng lần đầu tiên rất lạ mắt và thích thú với cảnh hò vác gạo trên bến. Ở miền Nam chỉ thấy cảnh hò cấy lúa hoặc chèo ghe trên sông rạch chớ không thấy ai hò trên bến tàu bao giờ. Điểm đặc biệt khác, phu khuân vác ở đó toàn là đàn bà, dù các bà bụng mang dạ chửa cũng tiếp tục vác gạo và ngay ở chợ cũng vậy, đa số là phụ nử buôn bán không biết tại sao ? Người phụ nử miền Trung chịu khó chịu nhọc, gánh vác, tảo tần mua bán nuôi cả gia đình có lẽ do đời sống cơ cực cùa miền Trung. Dân đi tàu muốn lập phòng nhì thì cứ thoải mái, mọi chuyện dều có quí bà lo, đàn ông chẳng cần bận tâm nhiều, chỉ ngồi chơi xơi nước là đủ rồi ; có lẽ vì lý do đó mà nhiều dân đi tàu nhẹ dạ đã bị mấy bà ở ‘Đè Nẽng’ quyến rủ, dụ dổ. Tuy vậy lâu lâu tàu có ghé bến Hongkong hay Singapore cũng phái mua sắm chút hàng hoá cho các bà để bán lại kiếm lời là đủ rồi. Người phu khuân vác phủ trên vai tấm vải để khỏi bị dơ áo và họ vác những bao gạo từ bến đến kho chứa hàng cách đó chừng một hay hai trăm thước. Khi cần trục tàu bốc một lần mười mấy bao gạo xuống bến, hai người đàn ông dùng móc sắt móc bao gạo lên vai những người phu chạy đi chạy lại ; chợt một người cất giọng hò :
- Là hò là khoăn …ô khoan hỡi hò khoăn.
- Khoăn anh là có vợ nì.
- Ạ khoăn.
- Khoăn cô là có chồng nì.
- Ạ khoăn.
Dân, tác giả N.H.Liêm, Quan tàu Phạm Ngọc Lũy, CM Thiên Hậu, Máy nhì

Sau những tiếng ‘Ạ khoăn ‘ là họ móc bao gạo đặt lên vai người phu khuân vác, họ vừa làm việc vừa hò với giọng hò trầm trầm, buồn buồn mang âm hưởng của giong nói miền Trung. Bây giờ với kỹ thuật tân tiến ngày nay, hàng hoá được chở trong những container vừa đở hao tốn vừa được bốc dở mau chóng trên những bến terminal container to lớn ; bốc 5000 tấn gạo chỉ mất vài giờ trong khi tàu hàng thường ( cargo ) phải mất cả tuần lễ ; do đó cái cảnh hò vác gạo đã thực sự biến mất không bao giờ gặp lại nửa. Bây giờ lâu lâu ngồi nhớ lại những kỹ niệm xưa, em thèm nghe lại giọng nói mà dân đi tàu miền Nam vẫn thường dùng để chế nhạo ‘dân ngoài nớ ‘ :
- En không en tét đèn đi ngũ.
Lúc em còn làm việc trên tàu Trường Xuân, trong một chuyến từ Đà Nẳng đi Đài Loan trong khoảng tháng 11 hay 12 năm 1973, một hôm lúc sáng sớm, người bếp tên Giang Phiêu , gôc Quảng Đông thức sớm như thường lệ để chuẩn bi bửa ăn sáng cho các Sĩ Quan khi bước vào nhà bếp chợt trông thấy môt bóng đen từ trong nhà bêp vut chay ra ngoài và biên mât. Giang Phiêu tá hỏa, hoẳng hôt rôi ngôi phich xuông thêm nhà bêp, mặt tái xanh không còn chút máu ; những người thủy thủ khác thấy vây bèn hỏi lý do, anh bếp chỉ tay ra phía sau Pont tàu và ú ớ vài tiếng :
- Có … ma !
- Chắc con ma nó theo phá nị. Nị phải cúng cho nó ; nếu không nó bắt nị đi theo nó.
Không ai tin lời Giang Phiêu mà lại còn chế nhạo, nhưng sau đó, dường như thấy vẻ mặt nghiêm trọng của người đầu bếp có cái gì bất thường, mọi người đổ xô ra phía sau pont để kiểm soát, lúc đó mới tá hỏa tìm ra một hành khách đi lậu trốn trong xuồng cứư cấp và người đó lại là một Sĩ Quan Hải Quân, dường như bị vấn đề tinh thần sao đó. Người hành khách đó khai với Thuyền Trưởng là anh muốn trốn qua Hongkong để xin tị nạn vì thoạt đầu tấm bảng thông tin trên tàu ghi hải cảng sắp ghé là Hongkong, nhưng vào giờ chót lại thay đổi hải trình ghé Kaoshiung (Đài Loan). Người hành khách trốn trong chiếc xuồng cấp cứu từ ba ngày và anh ta đã ăn những bánh biscuit trong xuồng (trong xuồng cấp cứu nào cũng có tối thiểu những thực phẩm , nước uống cũng như những trang bị đặc biệt khi tàu bi đắm để có thể tự mưu sinh trong khi chờ đợi được tàu khác đến cứu như dây và lưởi câu ; miếng kiếng nhỏ để rọi lên tàu khác hoặc phi cơ để ra dấu hiệu….), sau đó vì khát nước anh ta chun ra ngoài vô nhà bếp kiếm đồ ăn và nước uống xui mới gặp anh bếp nên phải bỏ chạy chun vào xuồng làm anh bếp một mẻ hoảng sợ. Sau đó, Thuyền Trưởng phải đánh điện về hảng nhờ thông báo cho bộ Ngoại Giao Việt Nam và khi tàu cập bến Kaoshiung thì xe của nhân viên tòa Đại Sứ Việt Nam chờ sẳn chở người hành khách ra phi trường áp giải về Sài Gòn. Theo lời của Thuyền Trưởng thì người Sĩ Quan đó không bị đối xử xấu gì cả vì điều tra ra anh ta cũng có vấn đề về thần kinh nên cho giải ngũ.
Anh Bếp nầy cũng là người rất thiệt thà, một hôm tàu rời bến Sài Gòn đi Đà Nẳng, tàu có mua lươn tươi, vị Thuyền Trưởng đòi anh nấu món lươn um, nhưng khi món lươn được dọn ra, ông nếm một chút rồi nhăn mặt, bèn kêu anh Bếp đến và hỏi :
- Nị nấu cái món dzì kỳ dzậy ? Không phải món lươn um, canh không ra canh, kho cũng không ra kho ?
Giang Phiêu trả lời tỉnh bơ :
- Biểu ngộ lấu thì ngộ lấu chớ ngộ đâu piết lấu !
Cả tàu ôm bụng cười và đành ráng nuốt món lươn um của anh Bếp Quảng Đông Giang Phiêu.

Nếu trong môn hình học, đường ngắn nhất là đường thẳng nối liền hai điểm, nhưng trên mặt biển nó lại là đường cong, tiếng Pháp gọi là orthodromie hay arc de grand cercle, nhưng phải hải hành trên những khoảng cách rất dài mới thấy sự khác biệt như đi từ Yokohama đến San Francisco chẳng hạn ; lý thuyết thì như vậy nhưng trong thực tế thì ít có Thuyền Trưởng nào áp dụng vì phải đổi hướng tàu nhiều lần (vì đi theo đường cong) và trong cuộc đời đi biển của em thì em cũng chưa bao giờ được đi hải hành theo orthodromie. Không biêt nhạc sĩ Anh Thy sáng tác bài Hoa Biển có thật nếm mùi Hoa Biển và cảnh ngất ngư con tàu đi hay không nhưng em đã gặp bảo hai lần, một lần trên Ấn Độ dương, khi đó tàu Zebrugge đang ngoài khơi Madagascar, cơn bảo do khí áp thấp đã đi qua và di chuyển xuống Nam cực, nhưng ở đây nó lại gặp vùng khí áp cao trấn giử không đi qua được nên lại quay ngược đuổi theo phía sau tàu. Con tàu không còn cách nào khác hơn phải chịu đựng gần hai ngày trong cơn bảo, biển động dữ dội lên đến cấp 8,9 ( trên échelle Beaufort, biển được xếp hạng đến mức tối đa là 12 ). Những cơn sóng cao vút đập vào mũi tàu tung bọt trắng xóa làm nó dừng lại tức thì, rồi bao phủ toàn pont tàu khién nó giống như chiếc tiềm thủy đỉnh sắp sửa lặn xuống nước ; mặt biển chỉ toàn một màu trắng xóa cùng với tiếng gió gầm thét. Chiếc tàu trọng tải 17000 tấn chỉ còn là một chiếc lá nhỏ bé trong cơn thịnh nộ của đại dương. Lúc tàu bị sóng ngang, trong phòng ăn, những chồng chén dĩa chưa kịp cất bị hất tung xuống sàn tàu bể tung toé, trong cabine của em cũng vậy, trên giường ngũ, khi tàu nghiêng sang trái hay sang phải là em cũng lăn theo gần lọt xuống sàn ; những chai lọ quên chưa cất bể không còn một cái. Trên bàn ăn, người ta gắn những tấm nhôm có những lổ tròn đường kính khác nhau, trên đó có thể để những dỉa ăn lớn nhỏ để nó khỏi rơi xuống sàn, dụng cụ chỉ được xử dụng khi thời tiết thật xấu và món soupe chỉ đổ đầy phân nửa dỉa ; ăn xong mọi người rút lui sớm vào phòng an nghỉ vì ai cũng mệt đừ. Con tàu ngất ngư rung chuyển từng hồi theo cơn thịnh nộ của cơn bảo, qua sáng hôm sau, cơn bảo dịu dần, mặt biển êm trở lại nhưng nó lại cuốn theo những cành cây bị gảy trôi lều bều theo sóng nước.

Cuộc đời đi biển của em thì có rất nhiều kỹ niệm, những kỹ niệm mà em kể cho cô chỉ là một phần nhỏ còn sót lại trong ký ức và từ từ cũng bị chìm trong quên lãng vì cũng lâu lắm em không có dịp kể lại cho ai nghe mà em cũng không muốn nhớ đến quá khứ. Đời đi biển có nhiều cảnh thiệt thòi như phải xa nhà, xa người thân, xa thành phố thân yêu, xa bạn bè ; chắc chắn là không có vụ sáng sáng ra ngồi tán gẩu bên quán café ở góc đường quen thuộc hoặc chiều thứ Bẩy hẹn hò đi bát phố Catinat với bồ. Cũng không có dịp đi dạo chợ hoa ngày Tết, ngắm những con chim én bay là đà trên ruộng lúa chín trong bầu không khí lành lạnh khi mùa Xuân trở lại trên quê hương. Người sống trên đất liền chắc không ai để ý đến mấy chuyện đó nhưng đối với người đi biển thì nó lại là những cái nhớ quay quắt, tuy thật tầm thường nhưng thật là quí giá và những người đi tàu đều cùng chung cảnh ngộ ít nhièu chỉ còn cách dùng men rượu giải khuây nơi bến lạ. Lâu lâu tàu ghé bến Sàigòn gặp lại những người thân, hoặc bạn bè củ, tình cờ, kẻ còn người mất, những thay đổi ; người đi biển cảm thấy lạc lỏng, bơ vơ, giống như mình đến từ một thế giới nào khác. Cuộc sống người đi biển tuy vậy không phải hoàn toàn vô vị và buồn tẻ, tuy sống xa nhà và nhớ đất liền nhưng khi phải trở lại sống trên bờ một thời gian vì lý do nào đó, họ lại nhớ biển cả, nhớ mùi ẩm ướt, mằn mân của nước biển, nhớ những cơn sóng lắc lư ru ngủ, vì khi ngủ trên chiếc giường êm ấm trên đất liền, họ cảm thấy như thiếu một cái gì quen thuộc, khi nhớ ra họ mới biết thiếu cái « lắc lư » của con tàu, thiếu tiếng rì rầm của máy tàu. Họ nhớ khoảng không gian bao la của đại dương, nhớ những cơn gió rít, những con chim hải âu, những bầy cá nược lội theo tàu và nhiều, nhiều lắm …..Họ nhớ quán café chợ củ Sài Gòn mở cửa sáng sớm còn vắng vẻ khách bên cạnh tách café bốc khói trong cái lành lạnh của buổi sáng sớm, thành phố còn ngáy ngủ, trong khi chờ đợi chuyến xe đò đi Nhà Bè xuống tàu rời bến.
Em xin dừng bút nơi đây vì nếu viết nửa cũng không biết bao giờ mới hết, xin chúc Thầy Cô một weekend vui vẻ.

Home

KỶ NIỆM 30 NĂM NGÀY CƯỚI

KỶ NIỆM 30 NĂM NGÀY CƯỚI
Trương Văn Tài

Đưa Em Qua Cánh Đồng Vàng

Mơ Ngày Hạnh Phúc rộn ràng lòng anh

Giở trang Lưu Bút Ngày Xanh

Dường Như Em Đã Yêu Anh thuở nào

Còn anh Yêu Em Dài Lâu

Đêm mơ Áo Đẹp Nàng Dâu diễm tình

Em Bên Gối Mộng đẹp xinh

Đêm Trao Kỷ Niệm Hương Tình ngất ngây

Tình Em Biển Rộng Sông Dài

Bên nhau nhớ Kỷ Niệm Ngày Mới Quen

Thiệp Hồng Anh Viết Tên Em

Đưa Em Vào Hạ cho mềm nhớ thương

Rước Tình Về Với Quê Hương

Túp Lều Lý Tưởng thiên đường đôi ta

Dìu em bước xuống Thuyền Hoa

Xây Nhà Bên Suối mặn mà ái ân

Nhớ ngày Đám Cưới Đầu Xuân

Hôn em, Cúi Xuống Thật Gần hôn em

Yêu Em Bằng Cả Trái Tim

Yêu em Vì Đó Là Em tuyệt vời

Chỉ Riêng Mình Em Hiểu thôi

Cơn Mê Tình Ái một thời nhớ mong

Bây giờ Ngày Đá Đơm Bông

Đôi ta Duyên Vợ Tình Chồng có nhau

Em cho anh Mộng Ban Đầu

Tình Yêu Thủy Thủ đẹp màu ước mơ

Hoa Biển sóng vỗ lời thơ

Lâu Đài Tình Ái anh chờ bước em...

NHỮNG CON TÀU MA TRÊN ĐẠI DƯƠNG

NHỮNG CON TÀU MA TRÊN ĐẠI DƯƠNGNguyễn Hiếu LiêmPont Khóa 19
         Trong đêm 17 rạng 18 năm 1972, trên vịnh Saint Laurent một chiếc tàu nhỏ của Sở Tuần Phòng ngư nghiệp Gia nả Đại xả máy hướng về một điểm sáng nhỏ ở khoảng cách phỏng độ 5 hay 6 hải lý. Trong ống dòm của Thuyền Trưởng Chester Handrahan, điểm sáng mở rộng ra trở thành một vầng sáng lấp lánh mờ ảo., ông tự hỏi :
-Cái gì vậy ? Đèn của tàu đánh cá hay đèn của một chiến hạm đang thực tập ? Hay ánh sáng của tinh tú đang mọc ?
Hai chục phút trôi qua, vầng sáng bây giờ có rìa sáng chung quanh hư thực như bị che khuất bởi khói, giống như một chiếc tàu đang bị hỏa hoạn. Nhưng lại là một chiếc tàu kỳ lạ, một chiếc tàu buồm hình dáng xa xưa với thân tàu nặng nề với ba cột buồm. Thuyền trưởng Handrahan nghi ngờ, ông biết những chuyện huyền hoặc, kỳ lạ của biển cả. Ông hỏi những nhân viên có mặt chung quanh ; họ xác nhận thấy rõ ràng một tàu buồm đang bị cháy, một con tàu của thế kỷ 18 giửa môt vầng sáng rực và đang di chuyển.
Chiếc tàu tuần tiến đến gần chiếc tàu ma, nhưng mọi người không ai biết khoảng cách thực sự là bao nhiêu ? 3 hay 1 hải lý ? Không ai biết vị trí của con tàu đang bị hỏa hoạn và trôi dạt trong đêm tôi. Tàu tuần tăng tốc độ bắt đầu cuộc săn đuổi kỳ lạ và thình lình Thuyền trưởng ra lịnh ngưng máy, ông chợt không nhìn thấy con tàu ma đâu nửa. Ông đưa ống dòm quan sát khắp chân trời, nhưng con tàu ma đã biến mất. Trước mũi tàu tuần chỉ còn là vùng biển trống dường như còn phản chiếu những tia sáng đỏ rực của một tai nạn bí ẩn.
Mười năm trước đó cũng có một sự kiện kỳ lạ khác, môt chiếc tàu buồm phát hỏa thình lình xuất hiện trên hải trình của những chiếc ferryboat nối liền đảo Edward và Nouvelle Ecosse, tất cả hành khách đều trông thấy. Một chiếc xuồng cấp cứu lập tức được hạ thủy và chạy về hướng chiếc tàu hỏa hoạn nhưng khi đến nơi nhân viên thủy thủ không trông thấy gì hết. Và rồi Sở Tuần Duyên kết luận đó chỉ là ảo ảnh. Tuy nhiên, còn có những nhân chứng khác, cô Judy Carruthers đang đứng trên bờ và cũng trông thấy một chiếc tàu ba cột buồm đang bị cháy, nhưng cô chỉ có 13 tuổi khi đó nên không ai tin, người ta nghi ngờ sự tưởng tượng của trẻ nhỏ. Theo một nhân chứng khác đáng tin cậy hơn của một người đánh cá đã hồi hưư và kể lại đã trông thấy nhiều lần từ nhiều năm qua chiếc tàu kỳ lạ mỗi khi ra biển.
Sau bản phúc trình của Thuyền trưởng Handrahan, người ta bắt đầu mở cuộc điều tra nhưng không tìm ra dấu vết một con tàu ba cột buồm nào hải hành trong vịnh Saint Laurent từ lâu. Phần khác, không có một tai nạn hỏa hoạn trên tàu nào được ghi nhận trong vịnh trong năm 1972 hay trước đó. Nhưng sau cùng người ta cũng tìm được trong hồ sơ lưu trử tên của con tàu ba cột buồm bị cháy là Jonathan và nó đã bị chìm trong vịnh Saint Laurent từ hai thế kỷ trước. Một vụ đắm tàu khá sôi nổi thời đó và nó đã nổi tiếng đến nổi trở thành môt truyện truyền kỳ. Thuyền trưởng tàu Jonathan từ chối cho cô con gái lấy một thanh niên trẻ chuyên nghề bẩy thú. Một buổi tối hai người đàn ông cải vả nhau dữ dội trên tàu, ban đầu là những lời năn nỉ rồi trở thành dọa dẫm, chửi bới và sau cùng là ẩu đả, hậu quả là cây đèn dầu bị hất đổ và nổ tung. Hỏa hoạn đã lan rộng ra khắp tàu, Jonathan trở thành một khối lửa sáng rực trên biển và đôi uyên ương cũng chết theo con tàu. Câu chuyện trở thành huyền thoại được kể đi kể lại qua nhiều thế hệ của người dân sống trong vùng vịnh.
Hình ảnh của Jonathan đã ám ảnh vùng biển của Gia nã Đại cộng thêm vào con số 300 hình ảnh xuất hiện lạ lùng của những con tàu khác được ghi nhận từ năm 1831 đến 1885 mà không ai giải thích được. Một đêm tháng Chín năm 1867, trên chiếc tàu buồm ba cột Orion hải hành trên Thái bình Dương hướng về Hongkong, viên Thuyền phó lợi dụng lúc con bảo tạm lắng dịu, leo lên vọng canh để kiểm soát tình trạng những cánh buồm, thình lình ông hoảng hốt la to : ‘ Có tàu ngay phía trước ‘, với giọng kỳ lạ, khàn khàn như bị ngộp thở. Viên Thuyền trưởng lúc đó đang ở phia sau tàu vội chụp lấy cái longue-vue (ống dòm ngày xưa chỉ có một ống) nhin ra phía trước mũi tàu. Ánh trăng xuyên qua khoảng trống của đám mây soi sáng một vùng biển và chính trong vùng biển đó xuất hiện một tàu buồm ba cột với tất cả những cánh buồm được trương lên. Điều làm viên Thuyền trưởng kinh ngạc là những cánh buồm của con tàu kia căng phồng chứng tỏ nó được đẩy bởi sức gió mãnh liệt. Con tàu vô danh kia tiến gần chiếc Orion như muốn nhắn gởi một thông tin và trên tàu Orion, các thủy thủ còn trông thấy cả những bóng người đang di động trên pont. Thuyền trưởng cầm lấy porte-voix (ống loa) để chuẩn bi liên lạc. Nhưng vào lúc đó ánh trăng lại bị mây che phủ, vùng biển trở thanh tối đen và khi ánh trăng chiếu sáng trở lại thì chiếc tàu buồm kia đã biến mất.
‘ Vào khoảng 4 giờ sáng, một chiếc tàu buồm xuất hiện phía trước chúng tôi, độ chừng 300 thước Một vầng ánh sáng màu đỏ soi sáng cột buồm, pont tàu và những cánh buồm. Thủy thủ báo tin cho Sĩ Quan hải hành. Một Sĩ Quan học viên được gởi lên vọng canh để quan sát, nhưng không trông thấy gì hết, không bóng dáng một chiếc tàu nào cả, mười ba người làm nhân chứng về sự xuất hiện này ‘.Đó là những gì đã xảy ra trong đêm 11 tháng Ba năm 1881 trên chiến hạm Bacchante ngoài khơi Úc đại Lợi và những dòng báo cáo trên được rút ra từ nhật ký của Quận công York, Hoàng Đế tương lai Georges V lúc đó đang có mặt trên tàu, theo ông thì sự xuất hiện kia hoàn toàn xác thực, không thể nghi ngờ gì được nửa vì lúc đó biển lặng và trời trong , như vậy thì không thể nào có sự lầm lạc. Hơn nửa hai chiến hạm đi phía sau lúc đó đã đánh đèn hỏi nhân viên hải hành chiếc Bacchante có trông thấy ánh sáng đó không.
Nhưng nhiều khi, cũng có tàu ma xuất hiện khá lâu đủ để ngưởi ta có thể ghi chép lại rõ ràng. Năm 1891 một Thuyền trưởng người Anh đã ghi lại rằng : ‘ con tàu sơn màu vàng hơi tái. Phía trước hơi thấp, phía sau cao với hai tầng pont ….Tàu có ba cột với vọng canh dài hình tròn giống như tháp tròn, cánh buồm may bằng loại vải mỏng ..’
Trường hợp khác, con tàu ma tiết lộ tên của nó; đó là con tàu đã bị đắm và tái xuất hiện như trường hợp của chiếc Silverhorn chẳng hạn. Đó là loại tàu bốn cột rời hải cảng Newcastle ở Úc đi Valparaiso (Chilie) và dự trù đên đó khoảng đầu tháng Chín năm 1907. Nhưng đến cuôi tháng Chín vẫn không thấy tăm hơi con tàu đâu cả, mọi người ai cũng lo lắng. Người ta hỏi thăm những Thuyền trưởng trở về từ vùng biển phía Nam, họ cho biết không gặp một cơn bão nào cũng như không hay biết một tin tức nào về tai nạn đắm tàu . Nhưng trên Thái bình Dương cũng có nhiều hải trình khác nhau và cũng có nhiều hòn đảo làm đắm tàu. Ngày 27 tháng Mười Một năm đó, trên sổ đăng ký của hảng Lloyd’s có thêm tên của chiếc Silverhorn trong danh sách những tàu bị mất tích. Tuy nhiên vào tháng Mươi Hai, một Thuyền trưởng tuyên bố đã trông thấy ngoài khơi đảo Juan Fernandez (Chilie) một thân tàu dã bị cháy. Ngọn lửa đốt cháy thân tàu, cháy lan trên pont và làm những cột buồm bị gảy dổ. Phía sau lái người ta còn đọc được vài chử …OOL, có thể đó là những chử sau cùng của chử LIVERPOOL, hải cảng đăng ký của chiếc Silverhorn. Một tuần dương hạm được gởi đi tìm kiếm xác chiếc tàu và để kéo nó về hải cảng Valparaiso nhưng nó cũng không tìm thấy gì hết trong vùng biển đảo Juan Fernandez và nó tiếp tục tìm kiếm đến đảo Pâques và chinh ở đó nó được cho biết là mười lăm ngày trước đó, một tàu buồm to lớn được trông thấy ngoài khơi trong suốt buổi trưa, trương những cánh buồm vá víu và dường như bị trôi dạt. Có phải đó là chiếc Silverhorn mà thủy thủ còn giử được sau khi dập tắt được hỏa hoạn ?
Sứ Giả của tàu maMột tên chiếc tàu khác được nhiều người nhắc nhở là chiếc Caleuche ; đó là môt con tàu ma khác trên vùng biển Chilie. Nó xuất hiện với hình ảnh một con tàu bị bọt biển bao trùm trong cơn bão và tỏa ánh sáng ửng đỏ trong đêm tối trong vùng biển chạy từ mũi Horn đến đảo Pâques. Khi thì nó xuát hiện với hình dáng của chiếc tàu trong cơn ác mộng: thân tàu dài ngoằn, cánh buồm rực lửa, dây cột buồm chằng chịt, khi thì nó mang hình dáng những con tàu đã mất tích.
Tên chiếc tàu Silverhorn lại được nhắc đến sau hai năm bị mất tích. Nhiều người đã gặp trên bến Valparaiso một người đàn ông khoảng 60 tuổi đi lang thang, miệng lẩm bẩm không ngớt : ‘ Tàu của tôi… ở ngoài kia…lửa cháy…tôi là Thuyền trưởng Warren…’ Warren là tên của Thuyền trưởng tàu Silverhorn và người ta tìm được trong túi áo khoác cúa y một tài liệu trong đó có tên con tàu Silverhorn. Đây là lần đầu tiên, môt con tàu ma đã gởi sứ giã trở về đất liền. Người ta phỏng vấn ông nhưng ông chỉ nhất định nói về hỏa hoạn, con tàu bị trôi dạt và xin gởi tàu kéo đi cứư cấp thủy thủ đoàn. Thuyền trưởng Warren với thân hình gầy gò và gương mặt hốc hác, cái nhìn xa xôi hướng về một tai nạn mà không ai biết Người ta cũng không biết ông từ đâu đến đây ?. Một y sĩ được gởi đến chẩn bệnh và kết luận là ông bị mất trí nhớ vi bị khủng hoảng tâm thần và thân thể bị suy yếu toàn diện. Không ai hiểu được những câu nói rời rạc cũng như nguyên do của sự khủng hoảng và sự suy yếu của ông. Giã dụ đó là Thuyền trưởng Warren thực sự đi nửa thì tại sao ông đã bỏ tàu ? Và tại sao ông đã đến được Valparaiso hai năm sau đó ? Tại sao những người cứu Thuyền trưởng Warren lại giấu biệt danh tánh ? Bao nhiêu câu hỏi đã bị khựng lại bởi sự im lặng của Warren; và ngày qua ngày, sức khoẻ của Thuyền trưởng càng suy giảm đến lúc sắp trút hơi thở sau cùng ông cũng không nói thêm được điều gì khác. Người ta chôn cất ông như một người tự nhận là Thuyền trưởng Warren, một cái chết kỳ lạ của một câu chuyện không kém phần kỳ lạ. Và một điều cũng kỳ lạ không kém, đó là trong khi Thuyền trưởng Warren đang xin tàu cấp cứư, những thủy thủ khác xác nhận đã trông thấy con tàu Silverhorn hay đúng ra là bóng ma của nó dọc theo trục hàng hải Nam vĩ độ 20 mà các tàu viển dương thường hay qua lại. Người ta lại còn tìm thấy một chiếc canot nhỏ trôi dạt ngoài khơi đảo Pâques, còn mang tên con tàu bị mất tích. Theo hình dáng bên ngoài và tình trạng nước sơn của nó thì hình như nó đã được hạ thủy không lâu lắm. Như vậy là con tàu ma đã để lại dấu vết của số phận ma quái của nó.
Khoảng hai mươi năm sau , cũng trên vùng biển đó, những thủy thủ quả quyết đã trông thấy trong một cơn mưa giông đang đổ xuống, một thân tàu đen xì ẩn hiện bởi những tia chớp và phần kiến trúc trên tàu màu trắng xát sáng như phosphore ; đó là một con tàu buồm lớn với tất cả những cánh buồm được trương lên và nó còn xuất hiện trước một tàu chở hàng Á căn Đình và một du thuyền ngoài khơi Pérou. Người ta cũng đoán chắc rằng đó không phải là chiếc Silverhorn vì tất cả nhân chứng đều khai giống nhau, đó là một tàu buồm năm cột. Và chiếc tàu buồm năm cột cuối cùng còn hoạt động là chiếc Copenhague, một navite-école (tàu thực tập) của Hải Quân Đan Mạch, nhưng nó đã bặt vô âm tín từ cuối năm 1928. Ban đầu, người ta tưởng nó bị hư máy vô tuyến nên không lo lắng gi cho lắm. Lẽ ra nó phải đến Melbourne ngày 22 tháng Ba, nhưng thời gian trôi qua, không ai còn trông thấy con tàu trở về nửa. Và những cuộc tìm kiếm bắt đầu. Trong một thông tin sau cùng của Thuyền trưởng Copenhague đã nhắc đến tên hòn đảo Tristan da Cunha nằm ở phía Nam Đại tây Dương, một chiến hạm được cấp tốc phái đến vùng đảo nói trên. Một vài ngư phủ cho biết là vào khoảng cuối tháng Giêng,họ trông thấy một chiếc tàu buồm lớn xuất hiện ở chân trời với một cột bị gảy chắc chắn do một trận bão xảy ra không lâu và người ta còn trông thây rõ thân tàu màu đen nổi bật trên nền trời đỏ ửng cho đến chiều tối. Đến sáng hôm sau, mặt biển trở nên trống trải, con tàu đã biến mất. Trên đảo cũng có nhiều xác tàu chìm nhưng không mảnh vụn nào được nhận dạng, có mảnh còn mang chữ Kobenhaven nhưng không ai biết chắc đó là của chiếc Copenhague và ai cũng nghĩ rằng không bao giờ biết được những gì đã xảy ra cho nó.
Vào tháng Mười Hai năm 1938, mười năm sau chuyến khởi hành của tàu Copenhague từ Rio de la Plata, một tàu đánh cá ở vị trí 40 hải lý hướng Tây Nam Cape Town đã lưới được một cái chai bằng thủy tinh dầy, phía trong chứa một hộp nhỏ đẽo bằng liège một cách thô kệch. Cái hộp chứa một mảnh giấy hay một thông tin bằng Anh ngữ viết nguệch ngoạt như sau 47°35’ Sud và 02°14’ Est và tên của con tàu Kobenhaven. Đúng là tên của tàu Copenhague, tiếp theo đó vài chữ : ‘ Gió hướng Đông…iceberg…bị bao vây…’ Như vậy thì tàu Copenhague đã đụng phải iceberg và chiếc tàu nam cột, lớn nhứt, đẹp nhứt thế giới dã chìm xuống lòng đại dương.
Trong một trường hợp khác, vào tháng Mười năm 1913 một tàu buồm hải hành ngoài khơi Terre de Feu đã gặp một tàu buồm ba cột đang trôi dạt. Thuyền trưởng ra dấu hiệu nhưng không được trả lời, ông bèn ra lịnh quay mũi hướng về chiếc tàu lạ kia. Càng tiến gần, những thủy thủ càng tỏ vẽ ngạc nhiên, một sự ngạc nhiên trở thành kinh ngạc rồi buồn thảm. Con tàu buồm ba cột đứng lặng im, một sự im lặng không chút sinh khí, dường như nó bị tan rửa không thể diển tả được. Nó mang hình dáng hư ảo như trong chuyện hoang đường. Điều làm kinh ngạc nhứt là màu, con tàu như được nhuộm màu xanh lục, tất cả đều mang một màu duy nhât, từ cánh buồm, pont tàu, cho đến đài chỉ huy. Các thủy thủ do dự rất lâu trước khi quyết định tìm hiểu con tàu kỳ lạ và sau cùng một Sĩ Quan phụ tá và một vài thủy thủ trèo lên thân tàu, họ tiến bước với tất cả thận trọng trên pont tàu làm những thớ gỗ kêu ộp ẹp theo những bước chân đi. Lúc đó họ mới hiểu rằng tàu bị nhuộm màu xanh vì nó đã bị bao phủ hoàn toàn bởi mốc và tỏa ra mùi lợm giọng, giống như mùi tử khí. Và quả thật, con tàu đã trở thành một nấm mồ , trên pont phía sau một bộ xương người nhăn nhó được bao phủ bởi những mảnh vải còn sót lại của bộ áo khoác ngoài, cái mũ casquette nằm trên mặt che phủ hai tròng mắt lõm sâu và những đốt ngón tay co quắp như còn đang nắm một món đồ đã biến mất từ bao giờ. Tất cả mọi người đều làm dấu thánh giá và họ còn phải làm dấu như thế nhiều lần nửa, càng tiến sâu trong dunette phía sau tàu, họ càng khám phá nhiều xác chết khác; ba xác ở phía sau lái, mười xác trong một căn phòng ,ba xác trong phòng ăn và một xác của người timonier ở tay lái tàu. Trên võ tàu người ta còn đọc được hàng chữ Marlborough, Glasgow.
Tàu Marlborough rời Lyttelton Tân tây Lan vào đầu tháng Giêng 1890 chở đầy trừu và vài hành khách dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Hird, một người dày kinh nghiệm của mũi Horn. Và đó cũng là chuyến sau cùng ông vượt qua mũi Horn vì chiếc Marlborough không bao giờ trở về Anh quốc nũa, con tàu được nhìn thấy lần cuối cùng ở eo biển Magellan nhưng sau đó không một tàu nào còn trông thấy nó nữa. Chuyện gì đã xảy ra trên tàu Marlborough ? Thủy thủ đoàn đã bị chết vì đói và lạnh ? hay bị bịnh dịch hoành hành ? Và nhứt là làm sao tàu đã tự nó di chuyển trong vùng biển đầy nguy hiểm, làm mồi cho sóng gió dữ dội cho đến vùng vịnh mà nó được tìm thấy ? ( Eo biển Magellan nằm ở cực Nam của châu Mỹ nằm ở Thái bình Dương, còn Terre de Feu nằm ở Đại tây Dương). Sự trôi dạt kỳ lạ đã qua những lộ trình nào trong khoảng thời gian hai mươi ba năm ? Những giấy tờ trên tàu đã bị mục nát bởi khí ẩm hoặc bị gió biển thổi bay mất không còn để lại dấu vết nào cả và người ta không bao giờ biết sự thực về thảm kịch trên tàu Marlborough.
Năm 1907 một thuyền buồm bốn cột Quevilly của Pháp đã gặp một trường hợp tương tự như chiếc Marlborough nhưng lần nầy thủy thủ con tàu bị nạn được may mắn hơn. Con tàu bị nạn trôi lênh bênh theo sóng gió, một Sĩ Quan tàu Quevilly đã trèo lên trên pont và tiến lần về phía sau lái nhưng không có một bóng người, kế đó đi xuống phòng phía dưới, đẩy mạnh cánh cửa sủng nước làm nó kêu rit lên và mở ra một lối đi. Bất chợt viên Sĩ Quan lùi lại một bước, trong khoảng ánh sáng yếu ớt, xanh xao, ông nhận ra những thân hình nằm dài trên couchette và cả trên sàn tàu. Những thân hình với gương mặt tái xanh, râu rìa mọc dài như đang nhìn người Sĩ Quan, đôi mắt họ mở rộng. Người Sĩ Quan tiến gần những xác chết, chợt ông ta rùng mình. Một trong những xác đưa cánh tay lên, một xác khác chợt há miệng, một xác khác cố gắng bập bẹ vài tiếng như muốn nhắn nhủ điều gi … và bây giờ thì tất cả xác chết đều động đậy , thì thào. Những xác chết sống dậy từ nấm mồ của biển hay của con tàu Everest Webster đã bị trôi dạt từ một tháng nay, họ đã bị đói , tê liệt vì lạnh và ẩm và cũng như đã ăn hết thực phẩm trên tàu, họ không còn đủ sức để ra dấu hiệu cầu cứư chỉ còn nằm chờ chết hay một phép lạ.
Trong một hoàn cảnh khác, ngoài khơi Graham, một tiền đồn của lục địa Nam Cực, xuất hiện một con tàu buồm ba cột. Một vùng sương mỏng chợt bao phủ bầu trời trong xanh, con tàu tiến chầm chậm, treo đầy buồm và phía sau lại có treo một lá cờ. Trên bờ, ba nhà thám hiểm của đoàn thám hiểm Thụy Điển Otto Nordenskjold đứng nhìn con tàu sẽ đưa họ trở về Âu Châu sau mùa Đông. Con tàu mang tên Antarctic tiến từ từ một cách thận trọng về phía họ và nhứt là để tránh những tảng nước đá trôi lêu bêu. Nhưng thình lình nó dừng lại, rồi nó lại tiếp tục di chuyển nhưng … không phải về phía bờ mà là vượt khỏi mặt đất và bay lên không trung !!! Một giải sương trắng đục như sửa tách rời thân tàu và mặt biển và giải sương này càng lúc càng dầy thêm. Ban đầu người ta cũng tưởng đó là sương mù nhưng không phải, con tàu tiếp tục bay càng lúc càng cao như nó đang trôi nổi trên sương mù đến một lúc nó hoà tan vào ánh sáng và biến mất. Trong khoảng thời gian sau đó, những nhà thám hiểm được cứư như một phép lạ bởi một chiến hạm của Á căn Đình và kỳ lạ hơn nửa là họ được cho biết vào thời điểm họ trông thấy chiếc Antarctic cũng chính là lúc mà chiếc tàu này bị chìm và nghiền nát bởi những tảng băng.
Một trường hợp khá hi hửư khác đã ám ảnh không ít những người dân sống ở vùng bờ biển phía Tây Ái nhỉ Lan trong năm 1917. Một buổi sáng chợt xuất hiện cách vài hải lý một tàu hàng bị chìm hết phân nửa, chắc chắn nó đã bị trúng ngư lôi. Trên bờ người ta lập tức gởi xuồng đến cấp cứư nạn nhân và những người cấp cứư trên xuồng cũng nhìn thấy rõ thân tàu bị thương sơn màu xám và đen đang bị sóng bao phủ. Khi họ đến gần con tàu khoảng vài trăm thước thì bất chợt họ nhìn thấy ngay chổ con tàu bị chìm chỉ còn là những con hải âu đang bay lượn trên một đám rong rêu.
Một con tàu ma khác đã xuất hiện trước Port-Danger ở Nam Phi, đó là chiếc Barracouta, một tàu chiến của Anh quốc. Điều đáng ngạc nhiên là theo những thông tin sau cùng nhận được thì nó còn cách hải cảng 300 hải lý và sẽ đến hai ngày sau đó. Và tuy nhiên không ai có thể lầm lẫn được với hình dáng thật rõ ràng của chiếc Barracouta đang hướng về hải cảng và nó chỉ còn cách hai hải lý. Một tàu kéo chạy ra hướng về chiếc Barracouta và một chuyện kỳ lạ xảy ra. Một cái gì giống như khói trắng và dày đặc tỏa ra bao phủ toàn thân con tàu trong nhiều phút. Trên bờ mọi người sửng sốt tự hỏi vè hiện tượng lạ lùng kia. Một vụ nổ trên tàu ? Nhưng không ai nghe một tiếng nổ. Hoặc một hỏa hoạn khủng khiếp ? Người ta đã từng thấy những vụ hỏa hoạn xảy ra nhanh chóng khi thủy thủ mở ván đậy hầm tàu và ngọn lửa bừng phát, thiêu rụi con tàu trong vài phút. Nhưng không, ở đây không phải trường hợp đó, khi làn khói trắng tan loãng trên mặt biển trống vắng, chiếc Barracouta cũng biến mất không để lại dấu vết nào. Chiếc tàu kéo chạy đi, chạy lại vùng biển để tìm kiếm nạn nhân, nhưng không, không có một thi hài nào cả, cũng không có một xác tàu bị đắm cả. Người ta tự hỏi về hiện tượng lạ lùng trong suốt 48 tiếng đồng hồ vì sau đó chiếc Barracouta thực sự đã đến và cập cầu hải cảng.




MS Nam Sanh échoué
à Faifo
31 Oct.1971

[en dechargement]
Trường hợp của tôi
Ở Việt Nam trước năm 1971 giới đi tàu ai cũng biết chiếc Nam Sanh, đó là một chiếc tàu củ kỷ, đen xì, xập kí nình , con tàu duy nhất chạy bằng hơi nước còn sót lại, trọng tải khoảng 300 tấn chuyên chạy đường Saigon-Danang. Đó cũng là chiếc tàu đầu tiên của tôi và tôi được nhận xuống tàu với chức vụ học viên (Elève Officier) và chính trên con tàu này tôi được thử lửa đầu tiên với sóng biển, chỉ qua một ngày trên biển thôi và với biển động cấp 4 là tôi ói tới mật xanh, mật vàng, cho tới ngay cả không còn mật xanh hay mật vàng nhưng tôi cũng tiếp tục ói; chỉ ói là ói , không có đi quart hay thực tập được gì cả, thân mình mệt lã chỉ muốn nằm ngủ vùi không muốn làm việc gì khác. Nhưng khi tàu cập bến Đànang là tỉnh táo như không có chuyện gì xảy ra mà cũng hên, tôi chỉ ói trong một hay hai chuyến rồi thôi chớ cái điệu ói dài dài chắc chủ đuổi không cho làm việc nửa. Tàu Nam Sanh chỉ có một hầm chở hàng ở chính giửa, phía trước là phòng lái, phòng ăn và cabine của Thuyền Trưởng và Sĩ Quan; phía sau lái tàu là nhà bếp, cabine của thủy thủ và tôi cũng ngủ phía sau tàu chung cabine với thủy thủ. Khi đi từ Sài Gòn ra Đà Nẳng, pont tàu chất đầy những bao bố đựng đầy chai bia cho đở choán chổ và khi đi quart ra phía trước mọi người phải đi trên những bao bố đó. Gặp khi rằm tháng Bảy, trời sáng trăng gió mát, biển êm, Thuyền trưởng có đem theo bánh Trung Thu, đem cắt bánh với nước trà mời mọi người dùng trên pont thật là vui vẻ.
Một hôm Ông Xếp máy dặn nhỏ tôi : ‘ Anh có đi quart, khi đi ra phía trước thì nhớ đi trên Babord, đừng có đi bên Tribord . Tôi thấy lạ nhưng cũng không hỏi tại sao nhưng tôi biết ông muốn ám chỉ một việc xui xẽo, huyền hoặc nào đó Nhưng rồi sau đó tôi không để ý đến chuyện đó nửa.
36 năm sau…
Tôi tình cờ gặp lại vị Thuyền trưởng củ năm nào. Sau những lời hỏi thăm xả giao, trao đổi tin tức về cuộc sống sau năm 75, ông chợt nhắc đến con tàu Nam Sanh :
- Tôi tin là có ma trên tàu Nam Sanh.
- Hả ? Sao hồi dó không thấy anh nói gì hết ? Mà sao anh biết ?
- Thì chính tôi thấy nó !
- Vậy à !
- Cậu không nhớ hồi đó tụi thủy thủ thường hay cúng vái mỗi ngày. Ông D (Thuyền trưởng tiền nhiệm) đã dán nhiều lá bùa trong cabine, ông ấy bảo tôi rằng :’ Anh đi làm thì cứ đi làm và đừng có nghĩ ngợi gì nhiều ‘ Ông ấy chịu không nổi nên phải bỏ tàu đi cho hãng khác.
- Anh thấy nó ra sao ?
- Thì một hôm tôi đang nằm trong phòng nhưng chưa ngủ, tôi chợt trông thấy một bóng trắng đi vào không một tiếng động.
- Rồi anh làm sao ?
- Tôi có làm sao đâu, tôi cứ để yên như thế, không nói gì vì tôi tưởng đấy là ông Thuyền phó đang kiếm giấy tờ gì đó. Sáng hôm sau tôi hỏi ông Thuyền phó : ‘Đêm hôm qua tôi trông thấy ông vào phòng tôi, ông muốn kiếm cái gì đấy ? ‘ Ông Thuyền phó ngạc nhiên bảo tôi :’ Tôi có vào phòng của ông bao giờ đâu ? Mà cũng đâu có ai vào phòng của Quan Tàu để làm gì ? ‘ Lúc ấy tôi mới hiểu rõ câu chuyện.
- Cabine Quan Tàu sát vách cái passerelle, cũng may hồi đó anh không nói gì hết chớ nếu kể lại lúc đó chắc em cuốn gói chạy mất !


Saturday, July 4, 2009

QUÊ HƯƠNG TÔI CỎ LÁC

QUÊ HƯƠNG TÔI CỎ LÁC
Tuấn Thy
Tuấn Thy
Tên thật là Trần Cẩn Trọng sanh năm 1941 tại Vĩnh Long
Tốt nghiệp Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ-Saigon, nghành Hàng Hải Thương Thuyền, Ban Thuyền Trưởng, và Cử Nhân Luật Khoa Saigon.
Tốt nghiệp trường Thương Mại Chambery (Pháp)-Ngành Ngoại thương. Bắt đầu viết truyện ngắn và làm thơ rải rác khi còn là sinh viên cho các nhật báo.
Từ năm 1969, viết chuyên khảo cho nhật báo Cấp Tiến, Dân Quyền, Chính Luận...
Sau khi vượt biên sang Pháp, Tuấn Thy, dưới bút hiệu Xuân Thu và Thy Thy, viết cho các nguyệt san Tự Do Dân Bản, Hồn Việt, Phụ Nữ Diễn Đàn và thường xuyên viết cho Nhân Bản của Tổng Hội Sinh Viên Paris và đặc san của các Hội Đoàn (Ái Hữu Dược Sĩ Người Việt Hải Ngoại, Liên Trường, Diễn Đàn Dân Chủ, Gia Đình Sương nguyệt Anh, v.v...).
Chuyển sang lảnh vực biên khảo chính trị, các bài khảo luận được các nhật báo và nguyệt san ở Pháp, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc Châu tuyển đăng trong nhiều năm qua.
Tuấn Thy được coi là một trong những tác giả truyện ngắn mang màu sắc đặc biệt. Dù là truyện, nhưng Tuấn Thy pha trộn nghiên cứu với văn chương. Đọc Tuấn Thy người ta tìm thấấy những nét thân thương của các làng mạc và nét đặc thù của nền văn hóa, văn minh Việt Nam.
Tuyển tập Cội Bần Chưa Dứt là một trong số những bài viết của Tuấn Thy đã được đăng trên các báo Hồn Việt, Việt Nam Tự Do, Gia Đình, Florida Việt Báo, Sài Gòn Nhỏ, Nhân Bản, v.v...
Tác phẩm của Tuấn Thy được ấn hành:
- Một chặng đường dấn thân (biên khảo) - 1997 dưới tên thật.
- Mảnh vụn tâm tình (thơ) - 1992
- Cội Bần Chưa Dứt (tuyển tập) - 1997

Cơn mưa ban chiều đã dứt, những chiếc lá vàng lả tả rơi theo từng cơn gió thoảng. Tôi ngồi yên lặng sau khi xem qua các mẫu vẽ của một người bạn cho nhà sản xuất trang phục Hermes. Đặt tách trà lên bàn, tôi lại nhớ đến ngày Tết cận kề, lẩm bẩm:
- Không mấy chốc lại đến Tết nửa rồi!
Thật là như lời ca của Hoàng Oanh:
- Không chờ mà đến, không hẹn mà trở lại, bốn mùa thay lá, thay hoa lần lượt trôi qua một cách êm ái nhẹ nhàng.
Giọng hát oanh vàng và lời ngâm thơ dịu ngọt của Hoàng Oanh làm cho tôi hồi tưởng lại năm nào, khi làm Thuyền Trưởng đưa tàu ngược dòng sông Cửu Long…

Vượt qua Cửa Tiểu tiến vào Tiền Giang sông Cửu Long, con tàu trở nên hùng vĩ trước vài chiếc ghe tam bản nhỏ nhắn, xinh xinh, cột dọc hai bên bờ vào những gốc cây hay cội bần. Tôi bước lên boong nhìn những xóm nhà lưa thưa trên cánh đồng ruộng mênh mông. Đây không phải là lần đầu tôi nhận nhiệm vụ ngược dòng sông Cửu, nhưng cứ mỗi chuyến đi tôi đều vui sướng được thấy rõ hơn những nét đẹp của quê hương mình và khám phá thêm những điều mới lạ dù tôi đã có dịp nhìn qua và làm cho tôi nhớ lại kỷ niệm trong những lần về quê lúc bãi trường hay vào dịp Tết, khi còn là học trò trung học. Đó là những dịp tôi gặp lại những người bà con thân thích để kể chuyện Sài Gòn…
Theo con nước thủy triều tàu chạy rất mau, nổi sóng làm chòng chành những chiếc thuyền con nên vị hoa tiêu ra lịnh cho bớt máy lại. Dòng sông uốn khúc, làng xóm lưa thưa qua địa phận tỉnh Gò Công và Bến Tre, cảnh vật có vẻ tiêu điều hoang vắng cả hai bên bờ. Những đám dừa xanh nghiêng mình soi bóng nước, êm ả dịu dàng với những tàu lá phất phơ theo ngọn gió.
Ở miệt nầy, dân cư không đông đảo vì đất đai còn là phù sa, bùn sình lầy lội, chưa được khai phá. Trong xa mới thấy vài thửa ruộng trồng lúa theo truyền thống nên có vẻ không trúng mùa cho lắm vì chỉ vài đám lúa vàng chen chúc trên cánh đồng mút mắt. Cỏ lác mọc đầy trải dài như những tấm thảm trên đất đai, đồng ruộng. Đây là vùng đất phù sa vừa mới đấp nên rất thấp, độ cao so với mặt biển khoảng hơn một thước. Nhờ vào các đám cỏ, lác, bần, dừa nước, mà giữ được phù sa, không trôi hết ra biển. Ở gần biển thì rải rác mọc lên các đám ô rô, cóc kèn, cây vẹt và cây đước. Sự hoang vu nầy làm tăng thêm vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương.
Tôi hít mạnh hơi thở vào lồng ngực để tận hưởng các mùi hương đầm ấm của hương sao, hương trứng sấu hay mù u phảng phất bên tôi, đàng kia đưa lại hay cận kề. Hồi còn nhỏ, sau những chiều tan học, tôi vẫn thích đi lượm trái mù u về để ép dầu thắp đèn và những bông mù u rụng lác đác dọc theo đường làng. Bông mù u không sắc sảo như những bông khác, tựa như bông mai, cánh trắng, nhuỵ vàng. Các ông bà trong làng thường gọi một cách văn hoa là Nam Mai mà theo tương truyền là của Vua Gia Long đặt cho bông mù u.
Tàu chạy ngang kinh Chợ Gạo vào xế trưa. Con kinh Chợ Gạo được đào vào khoảng đầu thế kỷ để thông thương từ Mỹ Tho lên Sài Gòn. Các ghe chài theo thủy triều vào kinh để đở nhọc nhân công chèo ghe lúa đi. Con kinh nầy lại có chổ giáp nước của Tiền Giang và sông Lòng Tào nên thường là các ghe xuồng đậu lại mua bán với nhau. Nơi đây người ta có thể tìm thấy được nhiều loại gạo thơm ngon như Gạo Thơm, Nàng Hương, Sóc Nâu, Chợ Đào… Kinh nầy cũng như các kinh không do thiên nhiên mà do sức người. Điều nầy cho ta thấy sự chinh phục thiên nhiên của con người. Về sau, các kinh được đào bằng tàu xáng mút như kinh Đồng Tiến ( khoảng năm 1956/57 ) dẫn vào Đồng tháp Mười, hay kinh Xà No ở Cần Thơ nên gọi là Kinh Xáng.
Ở miền Nam Việt, những chổ giáp nước rất nhiều như Chợ Gạo, Thủ Thừa, Vàm Nao, Ba Thê, Núi Sập… Lúc đầu các ghe xuồng dừng lại nghỉ ngơi, lâu ngày thành ra bến chợ, trở thành những nơi trao đổi hàng hóa, mua bán. Lâu dần người ta cất chợ, lớn nhỏ tùy theo dân cư, nhưng ít nhứt cũng có vài quán hàng hóa hay tiệm nước. Trong khi chờ đợi con nước thuận tiện hoặc đệ trình những giấy tờ cần thiết, người ta lên bờ nhâm nhi tách trà, cà phê hay lai rai vài ly rượu đế với tôm khô củ kiệu hay chim sẽ rô ti. Chén tạc, chén thù sau vài câu chuyện trao đổi, họ trở nên thân thiện, cười đùa không chút ngại ngùng. Để rồi chia tay nhau mỗi người mỗi ngả, không biết bao giờ mới có cơ hội gặp lại nhau. Thế rồi những tâm tình mộc mạc phát xuất qua những câu hò, giọng hát, tương tư:

Trời chiều ngã bóng về Tây
Em thương nhớ bạn như cây nhớ rừng
Con kinh xanh nước chảy không cùng
Em đây với bạn khi nào trùng lai
Phượng Hoàng đậu nhánh cẩm lai
Dặn lòng người ngãi chớ sai lời thề
Đường đi kinh xáng dầm dề
Sao anh không gởi thơ về thăm em
Đến tỉnh lỵ Mỹ Tho, cảnh vật trở nên trang trọng hơn. Những chiếc thuyền con hay ghe chài xuôi ngược tấp nập. Tôi đưa ống dòm nhìn kỹ cảnh vật. Mặc dù tỉnh Mỹ Tho không lớn bằng Sài Gòn, nhưng được xây cất rất khang trang, có vẻ sầm uất vì trước đây là giao điểm về miền Tây Nam Việt. Đường xe lửa được xây cất vào khoảng đầu thế kỷ để tiện việc đi lại cho dân chúng cũng như mua bán. Những năm trước khi Quốc lộ 4 được thành lập, người ta đi xe lửa xuống Mỹ Tho rồi xuống tàu của hãng Compagnie des Messageries Fluviales de Cochinchine về các tỉnh Hậu Giang.
Những con đường trong tỉnh lỵ đều được tráng nhựa, ngay hàng thẳng lối. Đó đây là nhà thương, bưu điện và trường Trung học Nguyễn đình Chiểu. Những nhà lợp ngói hay lợp tôle chen lẫn trong những dãy phố hai, ba từng hoặc hơn. Những bảng quảng cáo được dựng cao trên nóc các khách sạn, nhà hàng hay rạp hát. Chợ tỉnh được xây cất dọc bến sông, quang cảnh tấp nập. Ghe xuồng lớn nhỏ đủ loại, hàng hóa chất đầy, nào là những quài chuối, dài gần mươi nãi. Những trái mít đủ loại, mít nghệ, mít ướt, mít tố nữ… có trái to hàng chục kí lô, dừa xiêm, dừa lửa, những tràng cam, quít, chôm chôm, bòn bon… thôi thì đủ màu sắc rất là đẹp mắt.
Sự phồn thịnh của tỉnh Mỹ Tho được ca ngợi qua những bài thơ, bài hát huê tình của bạn thương hồ:
Cúc mọc dưới sông kêu bằng cúc thủy
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa
Gởi thơ thăm hết mọi nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em
Thật là lễ nghĩa, tình tứ vẹn toàn .
Bên kia bờ Tền Giang là tỉnh Bến Tre nhưng lại nằm sâu vào trong nên không thấy được, chỉ thấy những hàng dừa dầy đặc. Đó là nguồn lợi lớn nhứt của tỉnh Bến Tre, sau đó là tơ lụa và trầu cau (miếng trầu là đầu câu chuyện – ăn cơm chẳng được, ăn trầu giải khuây - miếng kia hạ rộng, miếng nọ hạ quan). Trước thời người Pháp sang, dân chúng sống về nghề ép dầu dừa, sau đó các lò dầu dẹp lần lần rồi ngưng hoạt động quay sang canh tác ruộng vườn. Ba Tri là nơi sản xuất tơ lụa. Còn Cái Mơn, quê hương Ông Trương vĩnh Ký là nơi sản xuất rất nhiều loại trái cây ngon ngọt ít nơi sánh bằng: măng cụt, bòn bon, dâu, chôm chôm… lại trồng được cây ca cao, cà phê.
Con tàu chạy qua Quận Sầm Giang thì mặt trời cũng xuống dần. Nhìn vào quận lỵ, các căn nhà lợp ngói âm dương hay hình bánh ích, mái cong bốn góc chen chúc lẫn nhau. Trên con đường lớn, có lẽ đường chánh của Quận, sừng sững tòa nhà của quận lỵ. Bên cạnh nhà quận là nhà lồng chợ được xây cất gần giống như các chợ quận ở miền Nam, cột sắt tròn cao, to cở vòng tay ôm. Mái ngói màu đỏ sậm, lưa thưa phủ rong rêu hoặc vá víu vài miếng fibro- ciment. Trước chợ là bến sông, quang cảnh có vẻ tấp nập. Nổi tiếng nhứt của Quận Sầm Giang là Trường Đá Gà.
Nền kinh tế và đời sống ở miền Nam Việt chịu ảnh hưởng của thủy triều nên khi nước thủy triều lên thì ghe xuồng tấp nập theo con nước mà tụ về các chợ để mua bán. Khi nước xuống thì theo con nước mà về nhà. Bởi thế khi thủy triều lên thì các bến chợ đều đông đảo.
Nhờ thủy triều nên kinh rạch ở miền Nam chiếm một địa vị quan trọng hơn đường bộ. Để chuyên chở lúa lên các chành ở Sài Gòn, các nhà chuyên chở thường dùng ghe chài lón hoặc sau này dùng các tàu dòng ghe lớn nhỏ, đôi hàng mấy chục chiếc, dài cả mấy trăm thưóc không chừng, tạo nên cảnh trí thật là đẹp mắt. Gia đình dân quê miền Nam, gần như nhà nào cũng có ghe tam bản để đi lại. Khá giả hơn thì có ghe bầu nhưng rất hiếm dùng thường xuyên vì hay để dành cho các cuộc giao tế như quan, hôn, tương, tế.
Mặt trời dần dần xuống ngang qua những hàng dừa dọc hai bên bờ Tiền Giang. Ánh hồng rực rỡ chiếu vào những hàng cây đủ loại bên các con đường đất hay trải đá sơ sài trong xóm làng. Nhìn ven bờ sông, những hàng dừa nước, cốc kèn, chưn bầu, bụi lác chen lẩn, rải rác đó đây. Những người ra chợ buôn bán lần lược chèo ghe ra về. Ngọn gió hây hây phất phới chiếc áo bà ba của các cô gái, hai chân nhẹ nhàng linh động, khoan thai chân nhịp trước sau, trên chiéc thuyền con.
Thỉnh thoảng vẳng lại những giọng hát câu hò huê tình đối đáp trên sông, nghe thật êm tai:
Bớ chiếc thuyền loan
Khoan thai bớt mái
Đặng đây tỏ mấy lời phải trái nghe chơi …
Bớ chiéc ghe sau
Chèo mau em đợi
Kẻo khỏi đoạn kinh nầy bờ bụi tối tăm…
Hoặc những câu:
Hò hơ ơ hờ… Kinh xáng mới đào
Tàu Tây mới chạy
Thương thì thương đại, bớ điệu chung tình
Chớ con nhạn bay cao khó bắn
Còn con cá ở ao quỳnh ờ ơ… khó câu
Hò hơ ơ ơ… kinh xáng mói múc
Chiếc tàu xà lúp nó chạy cũng thường
Em muốn ăn con lươn nấu với thịt xườn
Muốn về Trà Ba Lớn nọ… hò ơ ơ…
Cho tiện đường thăm anh

Tàu vượt qua giang phận tỉnh Mỹ Tho thì trời cũng bắt đầu tối dần. Giòng nước bàng bạc, nhẹ nhàng, lách tách vỗ hai bên mạn tàu, hòa lẫn với tiếng máy thanh một điệu nhạc buồn êm ái. Vị hoa tiêu nói với tôi:
- Quan Tàu à Qua khỏi lạch 78 đến Vàm Chợ Lách, minh sẽ neo lại ở hải lý 83 tức là trong giang phận Vĩnh Long.
- Dạ, tùy theo Bác
- Mình có thể lợi dụng con nước đi them nhưng theo lịnh của cơ quan an ninh Hải Quân Tuần giang, mình phải neo lại chờ sang. Vả lại cũng phải chờ thành đoàn cho họ dễ bảo vệ an ninh cho mình.
- Trời cũng tối rồi. Từ trưa đến giờ chắc Bác cũng mệt rồi. Mình cũng phải neo lại để nghỉ ngơi cơm nước.
- Từ Vĩnh Long đến Tân Châu còn 63 hài lý. Ngày mai mình kéo neo khoảng 8 giờ, hơi ngược nước từ Kinh Đồng Tiến nhưng trễ lắm là khoảng một giờ mình tới nơi.
- Mình còn cả ngày mai neo nghỉ ở Tân Châu. Sau đó mới đi Nam Vang. Bác đừng lo.
Tàu neo lại trước Vàm Chợ Lách, dòng Cổ Chiên như dự định vào lúc 8 giờ tối. Cơm nước xong xuôi, tôi lên boong tàu đứng nhìn giòng nước lặng lẽ trôi nhẹ nhàng. Những đám lục bình dập dều từng nhóm dọc theo bờ sông hay chính giửa song. Những chiếc thuyền con xuôi mái nhẹ nhàng về các kinh rạch. Những đàn chim lập lờ buông cánh đậu trên các hàng cây hay cội bần ngập nước. Nguyễn Bính đã ghi lại hình ãnh nầy bằng mấy câu thơ;
Sông sâu nước chảy đục lờ
Nắng chiều đã xế qua bờ bên kia
Ngang trời mây trắng bay đi
Chiều nay mây có bay về xứ tôi?…
Vùng nầy thuộc địa phận Tỉnh Vĩnh Long. Bồi đắp bằng phù sa, Vĩnh Long là nơi chôn nhau cắt rún của tôi. Miền quê hương sông nước nầy vẫn mãi in trong trí nhớ. Nằm giữa hai nhánh sông Cửu Long, Vĩnh Long là một tỉnh trong sáu tỉnh đầu tiên của miền Nam Việt Nam được coi là trù phú, ruộng đồng bát ngát, cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi, ghe thương hồ buôn bán tấp nập đêm ngày.
Qua ống viển kính, tôi nhìn thấy thành phố tỉnh Vĩnh Long đã lên đèn. Dầu không thấy rõ lắm, tôi vẫn nhận ra được ánh đèn cao vọi trên nóc của “Miếu Bà Bảy “ mà dân Vĩnh Long gọi là “Cây đa cửa hữu“. Đấy là cổ thành Vĩnh Long bị Pháp phá hủy, rồi gom lại chất thành một gò cao bên cạnh cây đa. Nơi đây cũng là Đài Chiến Sĩ trận vong. Cổ thành này ước chừng một cây số vuông, cửa chánh quay mặt ra song Cổ Chiên, đối diện Cù lao An Thành. Toà Hành Chánh Tỉnh được xạy cất chung quanh gò này. Có rất nhiều giai thoại kể về “ Cây Đa Cửa Hữu “ nhưng đặc biệt nhứt là hai câu ca dao mà hầu hết dân Vĩnh Long đều biết:
Bà già đi lưọm mù u
Bỏ quên ống ngoái chổng khu la làng

Câu ca dao có vẽ tiếu lâm nhưng thực sự là chuyện kể của các bà, các cô chống lại quân Pháp bằng cách lượm mù u rãi trên đường cho quân Pháp trợt té để họ xông ra đánh đập..
Phía Tây Cổ thành là tháp canh có lầu, thường gọi là Cầu Lầu, cất trên bờ sông nối liền Thiềng Đức và Công Xi Heo. Trên sông Cầu Lầu trước kia, có một cây cầu bắt ngang, kéo lên được. Tôi không nhớ rõ đến năm nào cây cầu này mới bị phá vỡ. Bên xa trong Cầu Lầu là đồng ruộng, phần lớn là của một ông đại điền chủ ngày xưa tục danh là Bá Hộ Nọn, sau này đất bị truất hữu cho nông dân.
Xa quê hương từ thưở ấu thời đi lên Sài Gòn tiếp tục việc học, nhưng tôi không thể nào quên được những con đường làng nhỏ nhắn, với tiếng guốc học trò vui reo đến trường. Con đường làng bùn sình khi trời mưa hay bụi cát cuộn bay khi nắng cháy, những hàng trâm bầu dọc theo bờ đê đồng ruộng vẫn mãi mãi là hình ảnh thân thương của tôi.
Nói về địa lợi thì Vĩnh Long cũng như các tỉnh miền Nam Việt, là nơi đất xốp mềm dẽo, dễ trồng trọt, cứ cắt cho sạch cỏ rồi vãi lúa giống xuống là lúa mọc lên không tốn công cày bừa. Nước sông tuy đục mà ngọt, tưới rửa tiện lợi.Vĩnh Long có nhiều di tích lịch sữ, cảnh trí không có nét đẹp hung vĩ của núi non nhưng rất nhiều vườn cây trái sai oằn, cam, quit, bưởi, ổi…và đặc biệt nhứt là mận Hồng Đào ở các cù lao An Tánh, Chợ Lách, Phú Phụng, Bình Hòa Phước.
Không biết bao lâu, tôi ngồi nhìn ánh trăng vằng vặt chiếu sáng cả không gian, lấp lánh trên mặt nước. Trăng tỏ rạng chiếu qua ngàn cây cỏ lá làm tôi không thể bỏ mà đi ngủ được dầu biết rằng mai này còn phải tiếp tục hải trình đến tận Nam Vang. Những ngôi sao tỏa nhẹ ánh sáng từ vòm trời cao vút. ở xa, xa lắm có lẽ. Chung quanh tôi không một tiếng động. Không khí nhẹ nhàng, thoang thoảng mùi cây trái. Đồng quê thiêm thiếp trong cảnh tịch mịch.
Sương bắt đầu rơi nhẹ xuống phủ dần lên mặt sông một màu trắng đục như sửa. Tôi chợt nghĩ trong rừng cây trái của quê hương, đời sống của thảo mộc, thú vật vẫn tiếp tục. Có thể có cả ngàn tiếng động của các loài chim, chuột đồng, chồn cáo, cá lội dưới sông tìm kiếm thức ăn. Rồi chút nữa đây khi mặt trời bừng sáng mọi vật sẽ bừng tỉnh lại như thể một phép màu của đời sống.
Tàu kéo neo khi nước bắt đầu lên. Khoảng 10 phút sau đó, chúng tôi chạy ngang qua phà Mỹ Thuận. Vị Hoa Tiêu ra lịnh cho tàu chạy thật chậm để tránh tạo ra những con sóng có thể làm ngã nghiêng chiếc phà đưa hành khách sang sông Tiền Giang về miền Tây. Trên bến thật là ồn ào với những tiếng rao hang, lời nhạc quê hương, những mùi thơm thực phẩm làm tôi ngây ngất.
Hình ảnh của người đánh đàn độc huyền trên bến phà lại hiện về trong trí óc tôi. Tôi ngậm ngùi không biết người đánh đàn năm xưa còn đó không hay là:
“Ôi ! Khanh tướng công hầu chua chát lắm
Con đường tình nồng thắm trở sang ngang
Quãng đời qua, huyển ảnh với phủ phàng
Dòng tâm sự trong tiếng đàn cay đắng …
…..
Rồi lần đó tôi về ngang sông lạnh
Nước trường giang hiu quạnh gió thê lương
Chừng nghe như cung khánh ở vệ đường
Vài lữ khách khấn hương người nghệ sĩ “.
( Trích tuyển tập Mảng vụn tâm tình – T.T )

Chúng tôi đến Sa Đéc thì mặt trời đã lên cao khỏi ngọn cây. Đây cũng là một tỉnh trù phú của miền Nam. Chợ Sa Đéc; còn gọi là chợ Vĩnh Phước, được cất dọc theo bờ sông, liên tục dài về phía trong sâu. Những thuyền bè kết đậu khít khao giăng hang, bán tơ lụa, than củi, mây, tre, nhiều nhứt có lẽ là các ghe mắm. Tỉnh Sa Đéc, theo một vài tài liệu thì đó là do tiếng Miên có nghĩa là chợ Thiếc vì nơi đây trước kia tụ tập bán những đồ khí dụng, nay thì dân chúng đổi nghề làm mắm. Và mắm Sa Đéc được tiếng là ngon thơm nhứt miền Nam Việt như mắm cá lóc, mắm cá trê, mắm ruột, mắm thái, mắm tôm, ngoài ra cũng phải kể nước mắm cá linh thì khó có nơi sánh bì.
Các cô gái tỉnh Sa Đéc thì công, dung, ngôn, hạnh không thua ai, đưọc tiếng là nữ công ở huyện Vĩnh An. Người ta thường ngợi khen các bánh khéo ở Sa Đéc cũng như hầu hết các tỉnh miền Nam Việt như bánh bò trong, bánh bột lọc, bánh ích trần, bánh men, bánh xếp, bánh gan. So về phần sáng chế, thì không bằng ngoài Huế như bánh sen làm bằng bột hột sen rồi đem nướng như bánh kẹp hoặc bánh măng nạo từ măng tre làm thành bánh giống như bánh in…
Nói về các danh sĩ thì có Tống phước Hòa và một vài vị quan dưới thời nhà Nguyễn từ miền Bắc vào làm quan như Doãn Uẩn là Tuần Phủ và Nguyễn công Trứ. Sa Đéc là một tỉnh đầu tiên tổ chức việc học bán nội trú. Mỗi ngày học trò đến học được lưu lại ăn cơm trưa, đến xế trưa mới về nhà. Sa Đéc cũng là một nơi gốc cội đầu tiên của ngành sân khấu cải lương. Viết đến đây, tôi lại nhớ đến Ông André Thận là người đầu tiên vào năm 1917 đã lập ra gánh hát xiệc có thêm ít màn ca ra bộ để thu hút khán giả. Ông đã phối hợp vào hát bội điệu hát Dạ Cổ Hoài Lang (Vọng Cổ) mà người sáng chế là Ông Sáu Lầu ở Bạc Liêu.
Tỉnh lỵ Long Xuyên, trước đây có tên là Đông Xuyên (1908) hiện rõ dần trước mặt chúng tôi. Nhìn sơ qua thôi, người ta cũng đủ thấy đây là một tỉnh trù phú của miền Nam Việt, với những nhà máy xay lúa gạo. Cái đẹp của tỉnh Long Xuyên có thể ví như thành Venise. Trong tỉnh lỵ người ta có thể bơi xuồng đi đến các phố xa không cần phải lên bộ. Ngoài ra còn có con kinh nối liền hai tỉnh Long Xuyên và Rạch Giá được đào vào năm 1818 dưới quyền điều khiển của Quan Trấn Thủ Vĩnh Thành Thoại Ngọc Hầu. Kinh nầy được gọi là Kinh Ba Thê hay Kinh Núi Sập hay Thoại Hà. Bề rộng con kinh nầy khoảng 30 thước và dài 32 cây số. Thời gian đào kinh mất một tháng ròng rã với 1500 dân làm xâu.
Phần lớn đất đai ở đây do người Triều Châu trước đây khai thác, sau này đến những người Hoa Kiều lai Việt chịu khó cầm cày phát cỏ nên Long Xuyên trở nên giàu có thêm lên. Thật sự tỉnh Long Xuyên chỉ được khai thác vào khoảng năm 1910 trở đi, vì vùng đất này là đất giồng, rất tốt cho việc trồng mía mà không tốt cho việc trồng mễ cốc. Do đó, người ta thấy từ Long Xuyên đến Châu Đốc phần lớn đều trồng lúa xạ.
Chúng ta vẫn thường nghe nói:
“Trai Nhơn Ái, Gái Long Xuyên"
Đó là lời khen tặng các cô gái ở Long Xuyên nổi tiếng về nữ công, nữ hạnh, đặc biệt là ở vùng cù lao Hai Huyện còn gọi là cù lao Ông Chưởng. Ca dao cũng có câu hát:
«Ba phen quạ nói với diều
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm".
Tàu chạy ngang Doi Lửa, tức đầu cồn phía Nam của Cù Lao Tây, rồi đến Chợ Mới, qua kinh Vàm Nao. Kinh này nối liền hai nhánh sông Cửu Long. Trước đây Vàm Nao chỉ là một con kinh nhỏ, người ta có thể chuyền cây từ bên bờ nầy sang bờ kia nhưng nay thì không được nữa vì lưu lượng sông Cửu Long nơi đây rất mạnh làm lở bờ và mỗi năm làm rộng thêm lòng sông.
Nhìn về hữu ngạn Tiền Giang là những cánh đồng bao la bát ngát của vùng Đồng Tháp mà chưa bao giờ tôi có dịp đi tới cũng như nhiều người Việt chúng ta.
Theo sự mô tả của Ông Nguyễn Hiến Lê trong cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười thì đây là miền đất bao gồm hơn 800.000 mẫu tây, chiều ngang từ Hồng Ngự đến Tân An và chiều dọc từ Cao Lãnh đến Sway Riêng. Nếu kể cả khu ở giửa hai sông Vàm Cỏ thì được non một triệu mẫu tây mà chỉ có phân nửa là được canh tác nhưng kỹ thuật hãy còn yếu kém nên sản xuất không được nhìều như bên bờ tả ngạn Cửu Long. Phần còn lại thì là cỏ, lác mọc hoang vu.
Nhà cửa xóm làng thì thỉnh thoảng mới thấy một vài cái hoặc lều lá thấp lè tè của những nông phu gác lúa. Những nông phu đến đây khai thác độ vài mùa rồi dọn đi nơi khác, không ở lâu hơn vì đất trở nên cằn cổi. Vùng đất này do dự bồi đắp của lớp đá basalte và phèn đọng trong đó nên khó trồng được mễ cốc. Đất nầy chỉ thích hợp cho việc trồng khóm nhưng vì kỹ nghệ đồ hộp chưa được phát triển ở Việt Nam và đường chuyên chở không được thiết lập nên người trồng chỉ sản xuất một số lượng vừa đủ cho mức tiêu thụ trong nước. Thật là một điều đáng tiếc lắm thay.
Tuy vậy, đời sống của họ có vẻ nhàn hạ, không bon chen như ở thị thành. Họ chỉ phát một vài công đất ở sau nhà, sạ một vài giạ lúa rồi chờ lúa chín thì gặt. Thế là có đủ gạo để sống một năm trọn vẹn. Còn lại ngày giờ, họ ra đồng bắt cá, câu tôm không cần biết ngày mai ra sao, và có vẻ không cần biết thời tiết thay đổi thế nào:
«Một ngày có đủ bốn mùa
Sáng Xuân, trưa Hạ, đêm là Thu, Đông".
Hàn thử biểu lúc nào cũng chỉ từ 25 đến 30 độ, nên họ chỉ mặc áo ngắn, quần đùi, không bận lòng.
Thật ra cho đến nay chưa ai biết rõ để giải thích một cách tường tận tại sao gọi là Đồng Tháp Mười, tiếng Pháp là Plaine des Joncs. Có nhiều giả thuyết được đưa ra nhưng chỉ có hai giả thuyết gần đúng:
1- Vùng này trước kia có một ngọn chùa tháp của Thổ (Cao Miên) và ngọn tháp đó là ngọn tháp thứ mười kể từ Cao Miên xuống nên gọi là Tháp Mười. Có người lại nói là tháp bị phá hủy, chôn vùi rất nhiều vàng bạc, châu báo, ngọc ngà nên người ta thường đến tìm kiếm.
2- Tháp ở đây là tháp thứ mười của Thiên Hộ Dương cất trên cánh đồng này kể từ sông lớn nên gọi là Tháp Mười. Có sách viết là ngọn tháp này có mười từng chớ không phải là tháp thứ mười.
Trong Đồng Tháp Mười có nhiều rạch và kinh đào, nối liền miền Tây Nam Việt như Rạch Bến Lức, Kinh Mới, Kinh Bà Bèo, Rạch Thủ Thừa, Kinh Phong Mỹ, Kinh Tổng Đốc Lộc, Kinh Bo Bo, Kinh Đồng Tiến (đưọc đào vào khoảng 1956/57 ) và lớn nhứt là Kinh Lagrange ( người địa phương gọi là Kinh Lạc Giăng ) rộng trên 20 thước. Mỗi con kinh đều có một sự tích mà vì phạm vi bài báo, chúng tôi xin phép không viết ra đây.
Chung quanh những xóm nhà lèo tèo đây dó thì toàn là cỏ lác xanh rì thăm thẳm đến tận chơn trời. Đây là vùng đất nghèo nhất của miền Nam Việt Nam, gọi là nước mặn, đồng chua vì phèn quá nhiều. Những nông dân tới đây làm lúa ở lại hàng mấy tháng mới về nhà nên có câu hát:
«Trời xanh, kinh đỏ, đất xanh
Đĩa bu, muỗi cắn làm anh nhớ nàng
Bao giờ cho lúa chín vàng
Cắt rồi anh trở về làng thăm em«
Tàu chạy qua Cao Lãnh, Cù Lao Tây, Hồng Ngự thì ánh nắng mặt trời bắt đầu gay gắt hơn, nhưng gió đồng thổi mát rượi làm cho tôi cứ mãi ngắm cảnh mà quên mất. Dọc theo các quận, làng, những kiểu nhà thủy tạ, có băng cây đặt trước nhà, có thể là để chủ nhà ra hứng mát hoặc ngắm cảnh khi trăng lên, khi nước lớn, hoặc gọi đò sang sông. Có những nhà trồng cây hay kiểng, uốn cho nhánh giao lại theo hình vòng nguyệt trên lối dẫn xuống mé sông. Những cây dâm bụt, cây trà kiễng hay kim quít được rào chung quanh đệm thêm vẻ trang nhã cho căn nhà.
Phạm Quỳnh ghi lại trong bài Đi tàu thủy từ Mỹ Tho lên Long Xuyên là cứ nhìn cách trang trí và phương tiện của chủ nhân thì biết ngay là thuộc hạng người nào. Nếu có thuyền máy thì đó là nhà của Thầy Cai Tổng hay Điền chủ hoặc Hội Đồng. Bản tánh của người miền Nam là có gì thì chưng ra chớ không dấu diếm như người miền Trung hay người miền Bắc. Thực sự đấy không phải là khoe khoan nhưng họ đưa ra cho biết là có sự thoải mái trong cuộc sống của họ.
Bởi thế, các cô gái ở đất giồng, đất bưng (Rạch Giá – Cà Mau) thường hay mơ ước có chồng ở miền trên như Vĩnh Long – Sa Đéc – Long Xuyên – Châu Đốc…
Ca dao có câu:
« Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh«
Và cô gái miệt trên thì lại sợ :
«Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu«

Tôi bất chợt nhớ đến những câu hát trử tình vin vào những chuyến tàu xuôi ngược dòng Cửu Long:
«Tàu Nam Vang chạy ngang cồn cát
Xuồng câu tôm bơi sát mé nga
Thấy em cha yếu, mẹ già
Muốn vô hoạn dưỡng biết là được không?"

Hay là:
«Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc
Đất nào dốc cho bằng đất Nam Vang
Một tiếng anh than hai hàng lụy nhỏ
Còn chút mẹ già biết bỏ cho ai"

Quận Tân Châu hiện ra trước mắt tôi với những ghe thuyền tấp nập. Dầu đây chỉ là một quận nhỏ thuộc tỉnh Châu Đốc nhưng lại sát biên gới Cao Miên nên có những cuộc giao thưong làm giàu quận lỵ. So với quận Hồng Ngự bên kia bờ dưới một nẻo thì Tân Châu có phần phát triển hơn. Nhà cửa phần lớn được xây cất bằng gạch ngói chớ không có vách ván. Trước đây quận Tân Châu lo phần chuyên chở thư từ cho quận Hồng Ngự, bây giờ thì lo phần phân phối các thổ sản của Hồng Ngự mặc dầu quận Hồng Ngự nằm vào vị trí khá tốt là ở hai vàm rạch lớn là Sở Thượng và Sở Hạ, nhưng lại ở bên kia bờ sông, không có đường xe về miền Tây Nam Việt hay tiện lợi chở hàng về Rạch Giá, Hà Tiên như Tân Châu.
Sự phồn thịnh của quận Tân Châu có lẽ đã có từ lâu rồi nhờ ở các thổ sản như nhãn, bắp và tơ sợi. Chắc hẳn chúng ta không quên là hàng Tân Châu đã một thời nổi tiếng. Vả lại nằm sát biên giới với Cao Miên nên có những cuộc trao đổi hàng hoá hoặc chánh thức hay lậu thuế. Do đó Quan Thuế Tân Châu có một địa vị quan trọng đem lại được lợi tức cho ngân sách tỉnh Châu Đốc.

Ngoài ra, còn có Kinh Vĩnh Tế nối liền Tân Châu đến Giang Thành Hà Tiên. Kinh này được đào vào năm 1819 đến năm 1824 mới hoàn tất. Công tác này đã làm thiệt mạng hàng trăm dân phu do sơn lam chướng khí, thời tiết khắc nghiệt, muỗi, mòng, vắt và ác thú.
Người dân Tân Châu cố cựu đều nhớ bài vè đào kinh như sau:
“Chia ba người một thước
Đào sâu xuống nước
Việc mần thật nặng
Kẻ cuốc người rinh
Việc mần cực khổ
Không dám nghỉ ngơi
Mệt đổ hết hơi
Cực đà quá cực
Phần thì nắng nực
Lại không nước uống
… “
Hay những câu than thân buồn thảm:
“Chiều chiều mây phủ núi Sam
Chim kêu ghềnh đá, gẫm thân lại buồn"
Tuy vậy Kinh Vĩnh Tế đã đem lại nguồn lợi tức cho Châu Đốc nên có câu:
“Mắm Châu Đốc, dốc Nam Vang,
Bò Châu Giang, Kinh Vĩnh Tế"
Và trai gái dùng con kinh để làm đề tài đối đáp:
Gái hò:
“Hò ơ ơ… Đường từ Châu Đốc, Hà Tiên
Đường nào chạy thẳng nối liền hai nơi
Đất nào lắm dốc nhiều đồi
Đường nào cao nhứt, người người đều nghe
Sông nào tấp nập thuyền bè
Hồ nào với biển cặp kè bên nhau
Trai nào nổi tiếng anh hào
Anh nào đối đặng, hò ơ ơ… má đào xin trao …"

Trai đáp:
“Hò ơ ơ... Đường từ Châu Đốc, Hà Tiên
Con kinh Vĩnh Tế nối liền hai nơi
Đất Nam Vang lắm đất nhiều đồi
Đèn cao Châu Đốc mọi người đều nghe
Sông Cửu Long tấp nập thuyền bè
Biển Hồ hai chữ cập kè bên nhau
Trai Nam nổi tiếng anh hào
Anh đà đối đặng, hò ơ ơ …
Anh đà đối đặng, vậy má đào có trao anh?…"
Những câu hò đối đáp của người dân miền Nam không sao kể hết được, vui có, buồn có, đủ loại từ gia tộc, nhơn nghĩa ở đời đến tình cảm.
Tàu buông neo trước quận Tân Châu vào lúc một giờ trưa như dự định. Tiễn vị Hoa Tiêu lên bờ, tôi ngồi nhìn hai bên bờ sông Cửu Long mà lòng buồn rười rượi vì thấy mặc dầu hệ thống kinh đào đã thực hiện đưọc rất nhiều mà vẫn chưa đem lại cho người dân Việt một đời sống sung túc hơn.

Bởi thế, những chàng trai sau mùa gieo mạ lại khăn gói lên đường đi làm mướn ở các nơi xa, kiếm thêm tiền hoặc để cầu tiến,hoặc do máu giang hồ hoặc để dành cưới vợ. Thế nên có những bài thơ mộc mạc đầy ý tình:
"Lúa mùa rồi trả nợ nần sạch ráo
Để anh đi kiếm chén cháo đổi lấy chén cơm
Trước là cho biết cái xứ Sài Gòn
Sau nữa anh mua quần lãnh với gói bòn bon tặng con bạn tình…"
Nhưng ngày trở lại thì không biết đến bao giờ vì thân phận làm mướn cứ phải đi hoài, khó về đúng hẹn hoặc khi về không còn hình ảnh người trai thuở trước mà:
“Cây vông đồng không trồng mà mọc
Rễ vông đồng đâm dọc trỗ ngang
Cám trong nong trộn lẫn trấu càng
Thấy anh đi làm mướn …
Mà răng bịt vàng thiệt khó coi…"
Hai mươi năm trôi qua cách biệt quê nhà, tôi vẫn tha thiết có ngày trở lại để tìm lại nhũng kỷ niệm ngày cũ trên con tàu ngược dòng Cửu Long như độ nọ. Mong rằng có người bạn nào đó cùng tâm tư như tôi.
Tuấn Thy Xuân Đinh Sửu 1997

HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN và... ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM

HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN
và...
ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM





Còn một điều nữa mà không ai biết cho đến bây giờ, là Hàng hải mình cũng có tài tử đóng phim, chúng tôi chỉ mới khám phá ra gần đây thôi.
Đó là Lê Quang Cảnh, học chung khoá 19 với chúng tôi, Cảnh cũng là bạn học chung lớp Nhứt ở Gò Công, nhưng Cảnh chỉ học năm thứ nhứt tại trường Việt Nam Hàng Hải rồi bỏ học, nhà Cảnh có tiệm kem Phương Lan ở đường Lê Lợi gần thương xá Tax, nhà Cảnh khá giả nên Cảnh làm nhiều việc khác nhau theo sở thích của mình.
Lê Quang Cảnh đóng vai phụ với Thanh Nga trong phim Xa lộ không đèn, bây giờ Cảnh đang định cư ở Canada.
Có tin tức gì mới chúng tôi sẽ chuyển đến các anh sau.
Nguyễn Hiếu Liêm
Pont 19
Trường Việt Nam Hàng Hải